Chủ Nhật, 31 tháng 3, 2013

Hồi mã thương

1. Lại nhắc, phép đánh trận người xưa, thường thấy có 2 chiêu khá nổi tiếng là "hồi mã thương" và "đà đao". Thường thì, tướng thường vờ thua chạy, sau đó bất ngờ tập kích trở lại (hồi). Phép "hồi mã thương" là đòn thế nổi tiếng của Dương gia thương pháp. Còn "đà đao" được sử dụng khá hiệu quả bởi Bàng Đức trong Tam Quốc Diễn Nghĩa.

Tướng đuổi theo khi bên tướng "vờ" thua chạy, thường phải có sở trường mới có thể nắm phần thắng. Ví như: có tài bắn cung, có ngựa hay để đuổi theo khiến tương chạy không kịp trở tay, hoặc phải tự tin lắm vào khả năng của mình. Nếu không, thường dễ mất đầu như chơi.

2. Gần đây, thấy phong trào phản biện công khai ngày càng nhiều hơn. Những câu hỏi và câu trả lời thường được công khai, khiến người đọc có thể đưa ra những nhận định cho riêng mình.

Thường thấy, một bên là các cơ quan nhà nước (hoặc liên quan tới nhà nước), còn một bên là tập hợp những "trí thức" (người có chuyên môn) độc lập.

Trong nhiều năm trước đây, thường xảy ra bên Nhà nước dựa vào những "thế" và "lực" riêng của mình độc chiếm sân khấu, diễn đàn; và hay ra chiêu "cả vú lấp miệng em". Còn những nhà chuyên môn nằm trong hệ thống, nên thường chỉ đưa ra tiếng nói...nửa vời, hoặc im lặng không dám phản biện. Tóm lại, đó là khoảng thời gian mà "trí thức" nước nhà đang...."ngủ".

Tuy nhiên, khi tình hình bên trí thức có nhiều cải thiện, thì phía liên quan tới nhà nước vẫn không hề có những dấu hiệu thay đổi khi tham gia cuộc chơi. Kết quả là, thậm chí đối phương chưa "giả vờ" thua chạy, thì quân nhà nước vẫn cứ càn rỡ truy kích không một chút đề phòng. Hậu quả là, họ thường chọc phải tổ ong vò vẽ và dính đòn phản kích bất ngờ.

3. Điển hình có thể kể ra các vụ: ông Đặng Hùng Võ trả lời chất vất bà con Hưng Yên, và gần nhất là vụ Hiệp hội Bất động sản yêu cầu TS Alan Phan trả lời chất vất. Những ý kiến trả lời từ phía "trí thức" rõ thấy là có tình và có lý hơn cả (tất nhiên không hoàn toàn).

Trong cuộc đấu này, rõ thấy, phía nhà nước luôn chủ quan và coi thường đối thủ. Cuộc chơi thường bị bỏ ngỏ giữa chừng, cá lặn mất tăm (không rõ HH BĐS có phúc đáp thư của Alan nữa không?).

Thế nên, các cụ thường nói "Biết mình biết ta, trăm trận trăm thắng".

Đứng trên ngôi cao (?) mà coi thường địch, cụ thể ở đây là coi thường dân, coi thường trí thức, thì hẳn sẽ nhận được kết cục không như kỳ vọng.


Thứ Bảy, 9 tháng 3, 2013

Bản chất của hoạt động sáng tạo là độc lập

1. Vừa đọc xong câu ấy, có người bảo như thế. Mà ngẫm ra cũng chẳng sai. Có chăng chưa trọn vẹn bởi 2 chữ "sáng tạo" vốn bản thân nó mang một nội hàm rộng, khiến khó có thể vo tròn chỉ trong 1 câu nói như thế. Vậy rõ là, muốn sáng tạo thì phải có "tính độc lập".

Con người vốn chỉ là một nguyên tố trong cái xã hội rộng lớn, luôn luôn có sự tương tác. Từ khi sinh đến lúc trưởng thành, không thể nào thiếu những mối giao tiếp xã hội. Có chăng tồn tại được cái "tính độc lập", khi và chỉ khi, chúng ta hiểu rõ được bản thân và giữ được cái tôi trong suốt quá trình tương tác ấy.

2. Nói thì dễ, mà làm thì khó. Cái môi trường tập thể mà con người giao tiếp ngay từ thuở lọt lòng, chính là gia đình. Mà rồi, lớn lên cho đến chết, cũng vẫn nằm trong cái mối quan hệ ấy. Nên đó chính là môi trường tối quan trọng cho sự phát triển của "tính độc lập" trên.

Nhưng môi trường, tại đó mà chúng ta đang sống và hình thành nhân cách là như thế nào?

Các bậc cha mẹ luôn muốn con mình "giống" người khác. Nghĩa rằng, những gì con hàng xóm "có" và "đạt được" thì con mình cũng phải được như thế. Tôi có ông cậu ở Sài Gòn, có hai cô con gái và rất cưng chiều, cũng như kỳ vọng vào chúng. Mỗi lần ra Hà Nội, ông đều dẫn cô út đến nhà người bạn để nghe con bạn chơi piano. Và sau đó, luôn rót vào đầu đứa bé phải chơi đàn được như con bạn.

Đến bây giờ, trẻ con đi học, bố mẹ vẫn hỏi "con có được phiếu bé ngoan không?". Chẳng biết rõ, ai là người nghĩ ra cái "phiếu bé ngoan" độc hại thế không biết.

Chỉ tản mạn những câu chuyện về trẻ con vậy thôi. Chứ môi trường sống hiện tại, phục vụ có tốt cho hoạt động sáng tạo, không cần nói cũng rõ.

Nên thế mới thấy đúng. Không có "tính độc lập" thì đừng bao giờ mơ tới 2 chữ "sáng tạo".


Thứ Tư, 6 tháng 3, 2013

Tản mạn chuyện 8-3

Ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3 - Ngày Liên Hiệp Quốc vì Nữ quyền và Hòa bình Quốc tế. Nói nôm na, là ngày được xác lập ra để công nhận vai trò của phụ nữ trong các nỗ lực hòa bình, và phát triển và kêu gọi chấm dứt phân biệt đối xử và tăng hỗ trợ cho sự tham gia đầy đủ và bình đẳng của phụ nữ.

Thời còn sinh viên, mình có lần đi siêu thị sắm 2 tấm thiệp rất đẹp cho Cathy và Caroline, và ghi lời chúc mừng lên đó "Bonne journée de la femme" (Chúc mừng ngày quốc tế phụ nữ). Đến giờ ăn trưa, 2 nàng hỏi: "Sao mày lại tặng thiệp cho tao". Tóm lại, có lẽ, đó là điều kỳ cục nhất mà họ từng gặp, bởi ở Pháp hình như chẳng tồn tại cái thứ ngày đó trong đời sống thường ngày.

Aristotle từng viết: "Thoạt kỳ thủy phải có một sự kết hợp nào đó giữa những sự vật mà không thể hiện hữu được nếu thiếu nhau. Giống đực và giống cái phải kết hợp để lưu truyền dòng giống có cùng bản tính như chúng; hành vi này không phải là do ý thức, nhưng do bản năng tự nhiên có sẵn trong các loài động vật cũng như thực vật".

Nghĩa rằng, từ thời nguyên thủy, Chúa Trời khiến cho đàn bà ở nhà chăm con, trông coi ngọn lửa trong hang; và đàn ông đi săn bắn. Hẳn nhiên, sẽ chẳng có ai hỏi "Nếu ngược lại thì sẽ như thế nào". Trong đời sống hiện đại, cố nhiên, chẳng ai cấm đàn bà trèo thang đóng đinh, sửa chữa ô tô hay làm việc nặng; còn đàn ông bếp núc. Cứ chiếu theo cái tự do cá nhân, ai muốn làm gì chẳng được. Nhưng hẳn, đó chẳng phải là hiện tượng mang tính phổ quát. Và cứ thế, đàn bà mềm mỏng, dịu dàng; đàn ông cứng rắn, quyết đoán (đa số là như vậy).

Đời sống vốn thường được phân ra: đời sống cá nhân và đời sống xã hội (đời sống chính trị).

Cái đời sống cá nhân, trong môi trường tự do, thì ai muốn làm gì thì làm. Dù đàn ông muốn rửa bát quét nhà, đàn bà làm việc đồng áng thì cũng mặc. Chẳng ai ngăn cản được. Duy chỉ có đời sống xã hội, nơi các cá nhân có sự xung đột về lợi ích, mới bàn tới chuyện "được" hay "không được". Và theo đó, phụ nữ mới cần phải đấu tranh cho cái "quyền" của mình.

Nói ra đến thế, để thấy cái mà phụ nữ đấu tranh cho chính mình, hay đàn ông ủng hộ cho phụ nữ, đó chính là cái đời sống xã hội kia.

Không phải là những bông hoa, tấm thiệp, những bữa ăn sang trọng trong nhà hàng vào ngày 8-3 (hay 20-10), bởi đó chỉ là những định dạng của đời sống vật chất. Mà chính là việc phụ nữ đấu tranh cho quyền tham gia rộng rãi vào các hoạt động xã hội; hay người đàn ông tham gia nhiều hơn vào việc giúp đỡ phụ nữ, để họ có thời gian làm những việc trên.


Thứ Bảy, 2 tháng 3, 2013

Vấn đề giáo dục: Đổi mới thật không hay giả vờ đổi mới (*)

Nguyễn Trọng Bình  
 
Cần một phản tĩnh nghiêm túc và sâu sắc
Ở nước ta, lâu nay, nhiều người thường có thói quen ca ngợi, tán tụng, tuyên dương (thậm chí đòi nhân rộng “mô hình”) một vị lãnh đạo, vị Giáo sư, Tiến sĩ hay một ca sĩ, diễn viên “ngôi sao” nào đó... theo kiểu trước đây từng đi lượm “ve chai”, bán “cà – rem”, bán nước mía, chăn trâu... nhưng nhờ có ý chí và nghị lực vươn lên cộng thêm chút may mắn “từ trên trời rơi xuống” cuối cùng trở thành “nhân tài” hay “nhân vật tiêu biểu”, “cá nhân ưu tú” của đất nước. Có thể hình dung vấn đề này qua “công thức” sau:
 
NHÂN TÀI = MÔI TRƯỜNG NGHÈO KHÓ + MAY MẮN + Ý CHÍ VÀ NỖ LỰC VƯƠN LÊN CỦA BẢN THÂN.
Thật ra, làm gì có nhân tài với cái “công thức” mang màu sắc cải lương nếu không muốn nói là hoang tưởng như thế này. Làm gì có chuyện một cậu bé chăn trâu hay bán vé số không được học hành đến nơi đến chốn đùng một cái biến thành “doanh nhân thành đạt”, thành Giáo sư, Tiến sĩ, thành “lãnh đạo ưu tú” gì đó. Mà cứ cho là có đi chăng nữa thì những “nhân tài” kiểu này sớm hay muộn cũng gây ra đại họa cho xã hội, cho đất nước. Cho nên, những cách nghĩ này, theo tôi chẳng qua là thói quen của lối tư duy mà đằng sau nó là cái tâm lý mặc cảm về sự thua sút - “mặc cảm về thân phận” nhỏ nhoi, hèn kém nên buộc phải “tự đánh bóng” tên tuổi, “tự phong nhân tài” để một cách đầy dối trá và xảo biện mà thôi.
Nói cho cùng, nhân tài vốn không phải là chuyện huyền bí nhưng nhân tài cũng không phải và không thể tồn tại một cách... lơ lửng ở đâu đó. Nhân tài bao giờ và luôn luôn cũng tồn tại trong một “môi trường” cụ thể. Trước hết, đó là “môi trường giáo dục” – cơ sở đầu tiên và quan trọng  giúp phát hiện ra nhân tài; để nhân tài có cơ hội được nảy nở. Tiếp theo, muốn nhân tài ngày một tỏa sáng thì “môi trường xã hội” – nơi con người sống và làm việc có được đảm bảo một cách đầy đủ và trọn vẹn nhất hay không?

Vì thế, một đất nước, một xã hội muốn có nhân tài thật sự thì nhất định phải được xây dựng trên cơ sở: MÔI TRƯỜNG TỐI ƯU + NIỀM ĐAM MÊ + Ý CHÍ, NỖ LỰC CỦA BẢN THÂN VÀ TOÀN XÃ HỘI.
Một vấn đề nữa, dân tộc ta tuy có bề dày lịch sử 4000 nghìn năm văn hóa và tuy không ai phủ nhận lịch sử dân tộc từng sản sinh ra những cá nhân kiệt xuất được vinh dự trở thành danh nhân văn hóa thế giới. Nhưng ở một phương diện khác, dân tộc Việt Nam từ trước đến nay chủ yếu vẫn là dân tộc đi “nhập văn hóa” từ những dân tộc khác chứ chưa bao giờ làm được điều ngược lại. Một cách cụ thể, lịch sử chúng ta chưa từng có cá nhân nào có thể đứng ra “lập thuyết” để mang đi xuất khẩu cho các dân tộc khác trên thế giới mà chủ yếu chỉ đi “mượn thuyết” và “dụng thuyết” thôi (ở đây tôi chưa bàn đến việc “dụng thuyết” như thế nào, có hiệu quả hay không hiệu quả?). Nho giáo là của người Trung Hoa, Phật giáo của ngưới Ấn Độ; chủ nghĩa Mác - Ăngghen - Lênin mà từ lâu chúng ta xem là “kim chỉ nam” thì mọi người đã biết là của ai rồi...
Nói điều này để thấy rằng, chúng ta rất cần phải phản tỉnh một cách nghiêm túc về lịch sử 4000 năm văn hóa của cha ông để hiểu rõ hơn vị thế của dân tộc Việt Nam trên trường quốc tế. Chúng ta có quyền chính đáng để tự hào về những thành tựu của cha ông để lại trong 4000 ngàn năm qua nhưng không nên tự mãn một cách thái quá để rồi vô tình đánh mất đi lòng tự trọng của giống nòi.
Có cảm giác sau khi giành thắng lợi trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc ở thế kỷ 20 chúng ta đã “ngủ quên trên chiến thắng”, thậm chí là ngủ một giấc rất dài? Để khi dụi mắt thức dậy ngó xung quanh mới hay mình đã bỏ lỡ rất nhiều cơ hội vì trong lúc say sưa chìm đắm trong giấc mộng vàng son của quá khứ thì thiên hạ đã vượt mặt và bỏ xa chúng ta từ rất lâu rồi.
Một dân tộc, một đất nước có bề dày lịch sử và văn hóa rất lâu đời, vậy mà khi “mở cửa” trao đổi, hợp tác làm ăn với bên ngoài, những lúc cần nhập thì nhập “ông chủ”, nhập “chuyên gia” còn khi xuất thì chủ yếu là xuất... “ôsin” (thậm chí giờ đây việc “xuất ôsin” này đang có nguy cơ bị người Hàn Quốc từ chối nữa). Tại sao như vậy? Đã có ai nhìn thấy “chuyện rất lớn” này của một dân tộc 4000 năm văn hiến chưa? Có thấy đau đớn và chua xót không?
Từ góc nhìn văn hóa – giáo dục, chúng ta giải thích như thế nào về chuyện này đây? Chúng ta không có nhân tài thực sự; Hay lẽ ra chúng ta có thể đã có nhiều nhân tài nhưng do “môi trường” – điều kiện tối ưu (cả về vật chất lẫn tinh thần) không được đảm bảo? Nói cho công bằng, có lẽ cách giải thứ hai có vẻ hợp lý và dễ chấp nhận hơn.
Vì thế, nhất định chỗ này chúng ta phải nghiêm túc nhìn lại mình chứ không thể ngày này qua tháng nọ ôm khư khư những ánh hào quang của cái thời xa lắc xa lơ và nhất là xem đó như một cứu cánh của dân tộc. Và thay vì cứ ôm khư khư những những ánh hào quang xưa cũ ấy mà tự hài lòng, thoả mãn một mình sao không làm mới nó; tức là lẽ ra phải “hiện đại hóa truyền thống” bằng một cái đầu “khai phóng” để bạn bè thế giới hiểu rõ hơn về mình?
Cho nên, trong khi người ta đã lên tới mặt trăng, lên tới sao hỏa tìm sự sống còn mình vẫn đang loay hoay tìm miếng ăn dưới mặt đất, loay hoay thoát nghèo. Thiết nghĩ, dù muốn dù không chúng ta cũng phải biết xấu hổ về sự thua kém này. Xấu hỗ ở đây hoàn toàn không phải là sự tự ti hay mặc cảm mà là sự tự trọng; tự nhận thức, tự ý thức về giá trị, về vị thế của mình. Phải chăng đó mới thật sự văn hóa mà cha ông đã gầy dựng và để lại cho con cháu trong suốt 4000 năm; là văn hóa của một dân tộc “biết người biết ta, trăm trận trăm thắng”?; là “khiêm tốn, thật thà, dũng cảm” – như cách nói  sau này của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong 5 điều căn dặn các học sinh?

Thay đổi hay là sống... dật dờ?
Tóm lại, từ những vấn đề trên, tôi cho rằng những ai đang tự ru ngủ mình bằng cái “công thức” đào tạo nhân tài đầy hoang tưởng cũng như suốt ngày mê đắm và thoả mãn trong những ánh hào quang xưa cũ hãy mau chóng tỉnh dậy; phải tự phản tĩnh để mở ra bước ngoặc thay đổi cho giáo dục, từ đó thay đổi vận mệnh dân tộc. 
Cá nhân người viết cho rằng, tương lai dân tộc Việt Nam có thể “nở mày nở mặt” với các dân tộc tiến bộ khác trên thế giới hay không điều này hoàn toàn phụ thuộc vào công cuộc “đổi mới và cải cách toàn diện nền giáo dục” mà sắp tới đây mà Đảng và Nhà nước xem như một trong những nhiệm vụ chính trị hàng đầu. Đây cũng chính là điều mà nhân dân cả nước đang rất trông chờ và kỳ vọng?
Thiết nghĩ, đã đến lúc chúng ta phải mạnh dạn đưa ra quyết định để lựa chọn; hoặc là chúng ta có một nền giáo dục hiện đại, tiến bộ - một nền giáo dục “khai phóng” nhằm “trả cái đầu lại cho cái đầu” (lời của GS Cao Huy Thuần), phát huy nội lực 4000 năm văn hóa của cha ông tích tụ trong bản thân mỗi người dân Việt Nam; hoặc là, cứ để cho tương lai và vận mệnh dân tộc chìm nổi dật dờ theo kiểu “nước trôi đến đâu lục bình trôi đến đó”?
----------------------
Chú thích:
(*): Thơ Nguyễn Duy - “Đổi mới thật không hay giả vờ đổi mới/ Máu nhiễm trùng ta có thể thay chăng?”( Nhìn từ xa Tổ quốc).

Nguồn: vanhoanghean