Thứ Ba, 21 tháng 5, 2013

NHNN lấy đâu ra tiền cho vay mua nhà và mua nợ xấu?

Đối với người không chuyên như chúng ta, có lẽ cũng không cần hiểu “tài khóa” và “tiền tệ” là gì, khác nhau như thế nào. Khổ nỗi, chúng là những khái niệm cơ bản để hiểu Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang lấy đâu ra tiền để rót vào bất động sản cũng như lấy đâu ra tiền để giải quyết đống nợ xấu mà không sử dụng đến ngân sách.

Tài khóa khác tiền tệ

Nói một cách đơn giản hóa, Bộ Tài chính lo các “chính sách tài khóa”; Ngân hàng Nhà nước lo các “chính sách tiền tệ”.

“Chính sách tài khóa” thì liên quan đến việc tăng (giảm) thuế, tăng (giảm) mức chi tiêu của chính phủ. Chính phủ thu thuế và các nguồn khác vào ngân sách để có tiền mà chi tiêu. Chi nhiều hơn thu sẽ dẫn tới bội chi, lúc đó phải vay tiền về mà tiêu. Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, Chính phủ có thể giảm thuế cho doanh nghiệp và người dân hoặc tăng đầu tư từ ngân sách nhưng chính sách tài khóa như thế có giới hạn nhất định vì giảm thuế mãi lấy tiền đâu để ngân sách đầu tư ra xã hội. Chi tiêu như thế phải được Quốc hội phê duyệt hàng năm.

“Chính sách tiền tệ” thì liên quan đến lãi suất và nguồn cung tiền. Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, NHNN có thể tăng nguồn cung tiền và nhờ đó giảm lãi suất. Lãi suất giảm thì kích thích doanh nghiệp đầu tư. Nhưng tiền bơm ra đến một mức nào đó sẽ gây ra lạm phát. Hay nói cách khác khi lạm phát cao thì NHNN phải tăng lãi suất, giảm cung tiền.

Nay 30.000 tỷ đồng bơm ra thị trường cho người dân vay để mua nhà và doanh nghiệp vay để xây nhà xã hội là từ bên nào? Không phải từ bên tài khóa (Bộ Tài chính) vì ngân sách đang thâm hụt, lấy đâu ra tiền mà bơm cho bất động sản. Mà lấy từ ngân sách thì phải báo cáo xin phép Quốc hội phiền phức lắm.

30.000 tỷ đồng này lấy từ NHNN. Vậy câu hỏi là NHNN lấy đâu ra tiền để làm chuyện này? Câu trả lời rất đơn giản: NHNN in tiền.

In tiền như thế nào?

Ở đây lại cần phải nói cho rõ: Hàng năm NHNN phải in một lượng tiền giấy nhất định (in tiền theo nghĩa đen) để thay thế tiền cũ, rách nát và bổ sung vào lượng tiền mặt đang lưu hành trên thị trường theo kế hoạch đã định trước. Còn nói NHNN “in tiền” đối với khoản 30.000 tỷ đồng nói trên là nói theo nghĩa bóng. Không có chuyện máy in chạy rầm rập in ra chừng ấy tiền mà đơn giản là NHNN ghi có một khoản tiền như thế cho các ngân hàng tham gia chương trình. Các ngân hàng lúc này lấy tiền ra để cho vay. Khỏe re!

Nếu mọi việc êm xuôi, 10 năm sau khách hàng trả nợ, ngân hàng thương mại trả lại cho NHNN, tức xóa đi cái khoản ghi nợ ngày xưa. Ai nấy đều vui vẻ.

Nhưng sự đời thường không êm xuôi.

Đầu tiên, hành động của NHNN đó gọi chính thức là “tái cấp vốn”, nghe rất mơ hồ, khó hiểu. Thực chất, đây là cách NHNN cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho ngân hàng, đặc biệt khi ngân hàng gặp khó khăn về thanh khoản. Chú ý đến từ “ngắn hạn” – tức dưới một năm. Nay NHNN lách chuyện “ngắn hạn” bằng cách quy định: “Thời hạn tái cấp vốn cho vay hỗ trợ nhà ở từng lần là 364 ngày và tự động được gia hạn đối với dư nợ tái cấp vốn còn lại tại thời điểm đến hạn thêm 01 (một) thời gian bằng thời hạn tái cấp vốn lần đầu. Việc tự động gia hạn được thực hiện tối đa kéo dài đến ngày 01/6/2023”. Cũng thật là khỏe re một kỹ thuật lách luật!

Thứ hai, luật cũng có nói, để được tái cấp vốn, ngân hàng phải đem một cái gì đó lên thế chấp với NHNN (như cầm cố trái phiếu), ở đây không thấy nói yêu cầu gì từ phía ngân hàng tham gia.

Như đã nói ở trên, tiền bơm vào nền kinh tế như thế sẽ gây áp lực lên lạm phát và nhiều hệ lụy khác. Còn nhớ các lần “bù lãi suất 4%” vào năm 2009 đã vừa gây ra lạm phát, vừa dẫn đến những khoản nợ xấu khổng lồ hiện nay. Giả thử một tỷ lệ nhất định người vay mua nhà không trả được nợ, NHNN sẽ gánh khoản lỗ này.

Quan trọng hơn, cái hình thức “tái cấp vốn” dễ dàng như thế đang được NHNN lạm dụng trong nhiều trường hợp khác như hứa hẹn cấp 10.000 tỷ đồng tái canh cây cà phê ở Tây Nguyên. Rồi sắp tới, giải quyết nợ xấu, NHNN cũng sẽ dùng “chiêu” tái cấp vốn để hóa giải nợ xấu cho các ngân hàng với khoản tiền dự kiến không còn vài chục ngàn mà có thể lên cả trăm ngàn tỷ đồng. Biết bao nhiêu tiền sẽ được “in” ra, biết bao nhiêu rủi ro đang chực chờ phía trước.

Mua bán nợ xấu

Giả thử bạn cho người hàng xóm vay 100 triệu đồng, đến hạn rồi quá hạn một năm người này vẫn không trả được nợ, nợ biến thành nợ xấu. Đòi không được, bạn tính đến chuyện nhờ một công ty dịch vụ chuyên đi đòi nợ thuê đòi nợ, bên này đòi chi phí đến 50 triệu đồng. Nói cách khác bạn sẽ “bán” khoản nợ 100 triệu đồng cho công ty này với giá 50 triệu, vậy còn hơn không đòi được đồng nào.

Như vậy bán một khoản nợ xấu được bao nhiêu là tùy thương lượng giữa bạn và công ty đòi nợ, khả năng đòi khó thì giá còn giảm nữa.

Hôm qua Chính phủ vừa ra nghị định thành lập công ty mua bán nợ kiểu như thế nhưng có những đặc điểm rất lạ. Theo dự thảo trước đó, công ty này mua nợ của các ngân hàng bằng mệnh giá (tức ở đây mua đúng 100 triệu luôn), nhưng không trả bằng tiền mặt mà trả bằng tờ giấy nhận nợ (trái phiếu). Xong rồi ngân hàng đem tờ trái phiếu này lên NHNN, đưa cho NHNN như một dạng cầm cố, NHNN mới đưa cho ngân hàng một cục tiền ghi trong sổ sách (gọi là tái cấp vốn như nói ở trên) nhưng cục tiền này không bằng mệnh giá trái phiếu mà nhỏ hơn (kiểu như 100 triệu nợ, giờ chỉ còn 30 triệu, chẳng hạn).

- Lẽ ra công ty mua bán nợ là nơi định giá khoản nợ chứ không phải NHNN.
- Công ty mua bán nợ không bỏ tiền ra nên thực tế là ngân hàng chủ nợ bán nợ cho NHNN, cái công ty mua bán nợ chỉ là một dạng trung gian.
- NHNN dùng “chiêu thức” tái cấp vốn nên đúng là không sử dụng ngân sách nhà nước nhưng sẽ phải đảm nhiệm một mớ tài sản xấu, lại phải tung ra thị trường một lượng tiền lớn, gây áp lực lên lạm phát.
- Lạ nhất là phát biểu của đại diện NHNN: “Các doanh nghiệp có nợ xấu bán cho VAMC sẽ được tiếp tục vay vốn của TCTD theo quy định hiện hành”. Nhớ lại ông hàng xóm trên, lẽ ra phải liệt ông vào dạng khó chơi, bắt ổng chịu một phần trách nhiệm nay lại cho ông vay tiếp, lại đẻ ra nợ xấu tiếp.
- Ở trên bạn bán nợ cho công ty dịch vụ, nơi này sẽ tích cực đi đòi nợ, thu tiền về. Đằng này cái công ty mua bán nợ sắp được thành lập làm sao có đủ người, đủ kinh nghiệm và đủ nguồn lực khác để đi đòi nợ. NHNN thì không thể trực tiếp đi đòi nợ rồi.
- Thực chất đây chỉ là cách tạm thời chuyển nợ xấu từ ngân hàng qua cái công ty trung gian kia, sổ sách ngân hàng đẹp lên, hy vọng họ sẽ sẵn lòng cho vay tiếp. Còn cái cục nợ kia, hy vọng từ từ doanh nghiệp làm ăn khá trở lại sẽ trả được nợ.

Các tổ chức như IMF từng cảnh báo các ngân hàng trung ương không nên đảm nhiệm những công việc lẽ ra thuộc bên “tài khóa” vì làm thế sẽ gây áp lực lên lạm phát, đi ngược lại vai trò chủ yếu của một ngân hàng trung ương. Thôi đành quan sát chờ xem NHNN sẽ xoay xở thế nào với lạm phát – gói bù lãi suất 4% ngày xưa nay trở thành nợ xấu – nợ xấu được giải quyết bằng tái cấp vốn – để xem nó lại biến thành cái gì nữa đây.


Nguồn: FB Xê Nho Nvp

Chủ Nhật, 31 tháng 3, 2013

Hồi mã thương

1. Lại nhắc, phép đánh trận người xưa, thường thấy có 2 chiêu khá nổi tiếng là "hồi mã thương" và "đà đao". Thường thì, tướng thường vờ thua chạy, sau đó bất ngờ tập kích trở lại (hồi). Phép "hồi mã thương" là đòn thế nổi tiếng của Dương gia thương pháp. Còn "đà đao" được sử dụng khá hiệu quả bởi Bàng Đức trong Tam Quốc Diễn Nghĩa.

Tướng đuổi theo khi bên tướng "vờ" thua chạy, thường phải có sở trường mới có thể nắm phần thắng. Ví như: có tài bắn cung, có ngựa hay để đuổi theo khiến tương chạy không kịp trở tay, hoặc phải tự tin lắm vào khả năng của mình. Nếu không, thường dễ mất đầu như chơi.

2. Gần đây, thấy phong trào phản biện công khai ngày càng nhiều hơn. Những câu hỏi và câu trả lời thường được công khai, khiến người đọc có thể đưa ra những nhận định cho riêng mình.

Thường thấy, một bên là các cơ quan nhà nước (hoặc liên quan tới nhà nước), còn một bên là tập hợp những "trí thức" (người có chuyên môn) độc lập.

Trong nhiều năm trước đây, thường xảy ra bên Nhà nước dựa vào những "thế" và "lực" riêng của mình độc chiếm sân khấu, diễn đàn; và hay ra chiêu "cả vú lấp miệng em". Còn những nhà chuyên môn nằm trong hệ thống, nên thường chỉ đưa ra tiếng nói...nửa vời, hoặc im lặng không dám phản biện. Tóm lại, đó là khoảng thời gian mà "trí thức" nước nhà đang...."ngủ".

Tuy nhiên, khi tình hình bên trí thức có nhiều cải thiện, thì phía liên quan tới nhà nước vẫn không hề có những dấu hiệu thay đổi khi tham gia cuộc chơi. Kết quả là, thậm chí đối phương chưa "giả vờ" thua chạy, thì quân nhà nước vẫn cứ càn rỡ truy kích không một chút đề phòng. Hậu quả là, họ thường chọc phải tổ ong vò vẽ và dính đòn phản kích bất ngờ.

3. Điển hình có thể kể ra các vụ: ông Đặng Hùng Võ trả lời chất vất bà con Hưng Yên, và gần nhất là vụ Hiệp hội Bất động sản yêu cầu TS Alan Phan trả lời chất vất. Những ý kiến trả lời từ phía "trí thức" rõ thấy là có tình và có lý hơn cả (tất nhiên không hoàn toàn).

Trong cuộc đấu này, rõ thấy, phía nhà nước luôn chủ quan và coi thường đối thủ. Cuộc chơi thường bị bỏ ngỏ giữa chừng, cá lặn mất tăm (không rõ HH BĐS có phúc đáp thư của Alan nữa không?).

Thế nên, các cụ thường nói "Biết mình biết ta, trăm trận trăm thắng".

Đứng trên ngôi cao (?) mà coi thường địch, cụ thể ở đây là coi thường dân, coi thường trí thức, thì hẳn sẽ nhận được kết cục không như kỳ vọng.


Thứ Bảy, 9 tháng 3, 2013

Bản chất của hoạt động sáng tạo là độc lập

1. Vừa đọc xong câu ấy, có người bảo như thế. Mà ngẫm ra cũng chẳng sai. Có chăng chưa trọn vẹn bởi 2 chữ "sáng tạo" vốn bản thân nó mang một nội hàm rộng, khiến khó có thể vo tròn chỉ trong 1 câu nói như thế. Vậy rõ là, muốn sáng tạo thì phải có "tính độc lập".

Con người vốn chỉ là một nguyên tố trong cái xã hội rộng lớn, luôn luôn có sự tương tác. Từ khi sinh đến lúc trưởng thành, không thể nào thiếu những mối giao tiếp xã hội. Có chăng tồn tại được cái "tính độc lập", khi và chỉ khi, chúng ta hiểu rõ được bản thân và giữ được cái tôi trong suốt quá trình tương tác ấy.

2. Nói thì dễ, mà làm thì khó. Cái môi trường tập thể mà con người giao tiếp ngay từ thuở lọt lòng, chính là gia đình. Mà rồi, lớn lên cho đến chết, cũng vẫn nằm trong cái mối quan hệ ấy. Nên đó chính là môi trường tối quan trọng cho sự phát triển của "tính độc lập" trên.

Nhưng môi trường, tại đó mà chúng ta đang sống và hình thành nhân cách là như thế nào?

Các bậc cha mẹ luôn muốn con mình "giống" người khác. Nghĩa rằng, những gì con hàng xóm "có" và "đạt được" thì con mình cũng phải được như thế. Tôi có ông cậu ở Sài Gòn, có hai cô con gái và rất cưng chiều, cũng như kỳ vọng vào chúng. Mỗi lần ra Hà Nội, ông đều dẫn cô út đến nhà người bạn để nghe con bạn chơi piano. Và sau đó, luôn rót vào đầu đứa bé phải chơi đàn được như con bạn.

Đến bây giờ, trẻ con đi học, bố mẹ vẫn hỏi "con có được phiếu bé ngoan không?". Chẳng biết rõ, ai là người nghĩ ra cái "phiếu bé ngoan" độc hại thế không biết.

Chỉ tản mạn những câu chuyện về trẻ con vậy thôi. Chứ môi trường sống hiện tại, phục vụ có tốt cho hoạt động sáng tạo, không cần nói cũng rõ.

Nên thế mới thấy đúng. Không có "tính độc lập" thì đừng bao giờ mơ tới 2 chữ "sáng tạo".


Thứ Tư, 6 tháng 3, 2013

Tản mạn chuyện 8-3

Ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3 - Ngày Liên Hiệp Quốc vì Nữ quyền và Hòa bình Quốc tế. Nói nôm na, là ngày được xác lập ra để công nhận vai trò của phụ nữ trong các nỗ lực hòa bình, và phát triển và kêu gọi chấm dứt phân biệt đối xử và tăng hỗ trợ cho sự tham gia đầy đủ và bình đẳng của phụ nữ.

Thời còn sinh viên, mình có lần đi siêu thị sắm 2 tấm thiệp rất đẹp cho Cathy và Caroline, và ghi lời chúc mừng lên đó "Bonne journée de la femme" (Chúc mừng ngày quốc tế phụ nữ). Đến giờ ăn trưa, 2 nàng hỏi: "Sao mày lại tặng thiệp cho tao". Tóm lại, có lẽ, đó là điều kỳ cục nhất mà họ từng gặp, bởi ở Pháp hình như chẳng tồn tại cái thứ ngày đó trong đời sống thường ngày.

Aristotle từng viết: "Thoạt kỳ thủy phải có một sự kết hợp nào đó giữa những sự vật mà không thể hiện hữu được nếu thiếu nhau. Giống đực và giống cái phải kết hợp để lưu truyền dòng giống có cùng bản tính như chúng; hành vi này không phải là do ý thức, nhưng do bản năng tự nhiên có sẵn trong các loài động vật cũng như thực vật".

Nghĩa rằng, từ thời nguyên thủy, Chúa Trời khiến cho đàn bà ở nhà chăm con, trông coi ngọn lửa trong hang; và đàn ông đi săn bắn. Hẳn nhiên, sẽ chẳng có ai hỏi "Nếu ngược lại thì sẽ như thế nào". Trong đời sống hiện đại, cố nhiên, chẳng ai cấm đàn bà trèo thang đóng đinh, sửa chữa ô tô hay làm việc nặng; còn đàn ông bếp núc. Cứ chiếu theo cái tự do cá nhân, ai muốn làm gì chẳng được. Nhưng hẳn, đó chẳng phải là hiện tượng mang tính phổ quát. Và cứ thế, đàn bà mềm mỏng, dịu dàng; đàn ông cứng rắn, quyết đoán (đa số là như vậy).

Đời sống vốn thường được phân ra: đời sống cá nhân và đời sống xã hội (đời sống chính trị).

Cái đời sống cá nhân, trong môi trường tự do, thì ai muốn làm gì thì làm. Dù đàn ông muốn rửa bát quét nhà, đàn bà làm việc đồng áng thì cũng mặc. Chẳng ai ngăn cản được. Duy chỉ có đời sống xã hội, nơi các cá nhân có sự xung đột về lợi ích, mới bàn tới chuyện "được" hay "không được". Và theo đó, phụ nữ mới cần phải đấu tranh cho cái "quyền" của mình.

Nói ra đến thế, để thấy cái mà phụ nữ đấu tranh cho chính mình, hay đàn ông ủng hộ cho phụ nữ, đó chính là cái đời sống xã hội kia.

Không phải là những bông hoa, tấm thiệp, những bữa ăn sang trọng trong nhà hàng vào ngày 8-3 (hay 20-10), bởi đó chỉ là những định dạng của đời sống vật chất. Mà chính là việc phụ nữ đấu tranh cho quyền tham gia rộng rãi vào các hoạt động xã hội; hay người đàn ông tham gia nhiều hơn vào việc giúp đỡ phụ nữ, để họ có thời gian làm những việc trên.


Thứ Bảy, 2 tháng 3, 2013

Vấn đề giáo dục: Đổi mới thật không hay giả vờ đổi mới (*)

Nguyễn Trọng Bình  
 
Cần một phản tĩnh nghiêm túc và sâu sắc
Ở nước ta, lâu nay, nhiều người thường có thói quen ca ngợi, tán tụng, tuyên dương (thậm chí đòi nhân rộng “mô hình”) một vị lãnh đạo, vị Giáo sư, Tiến sĩ hay một ca sĩ, diễn viên “ngôi sao” nào đó... theo kiểu trước đây từng đi lượm “ve chai”, bán “cà – rem”, bán nước mía, chăn trâu... nhưng nhờ có ý chí và nghị lực vươn lên cộng thêm chút may mắn “từ trên trời rơi xuống” cuối cùng trở thành “nhân tài” hay “nhân vật tiêu biểu”, “cá nhân ưu tú” của đất nước. Có thể hình dung vấn đề này qua “công thức” sau:
 
NHÂN TÀI = MÔI TRƯỜNG NGHÈO KHÓ + MAY MẮN + Ý CHÍ VÀ NỖ LỰC VƯƠN LÊN CỦA BẢN THÂN.
Thật ra, làm gì có nhân tài với cái “công thức” mang màu sắc cải lương nếu không muốn nói là hoang tưởng như thế này. Làm gì có chuyện một cậu bé chăn trâu hay bán vé số không được học hành đến nơi đến chốn đùng một cái biến thành “doanh nhân thành đạt”, thành Giáo sư, Tiến sĩ, thành “lãnh đạo ưu tú” gì đó. Mà cứ cho là có đi chăng nữa thì những “nhân tài” kiểu này sớm hay muộn cũng gây ra đại họa cho xã hội, cho đất nước. Cho nên, những cách nghĩ này, theo tôi chẳng qua là thói quen của lối tư duy mà đằng sau nó là cái tâm lý mặc cảm về sự thua sút - “mặc cảm về thân phận” nhỏ nhoi, hèn kém nên buộc phải “tự đánh bóng” tên tuổi, “tự phong nhân tài” để một cách đầy dối trá và xảo biện mà thôi.
Nói cho cùng, nhân tài vốn không phải là chuyện huyền bí nhưng nhân tài cũng không phải và không thể tồn tại một cách... lơ lửng ở đâu đó. Nhân tài bao giờ và luôn luôn cũng tồn tại trong một “môi trường” cụ thể. Trước hết, đó là “môi trường giáo dục” – cơ sở đầu tiên và quan trọng  giúp phát hiện ra nhân tài; để nhân tài có cơ hội được nảy nở. Tiếp theo, muốn nhân tài ngày một tỏa sáng thì “môi trường xã hội” – nơi con người sống và làm việc có được đảm bảo một cách đầy đủ và trọn vẹn nhất hay không?

Vì thế, một đất nước, một xã hội muốn có nhân tài thật sự thì nhất định phải được xây dựng trên cơ sở: MÔI TRƯỜNG TỐI ƯU + NIỀM ĐAM MÊ + Ý CHÍ, NỖ LỰC CỦA BẢN THÂN VÀ TOÀN XÃ HỘI.
Một vấn đề nữa, dân tộc ta tuy có bề dày lịch sử 4000 nghìn năm văn hóa và tuy không ai phủ nhận lịch sử dân tộc từng sản sinh ra những cá nhân kiệt xuất được vinh dự trở thành danh nhân văn hóa thế giới. Nhưng ở một phương diện khác, dân tộc Việt Nam từ trước đến nay chủ yếu vẫn là dân tộc đi “nhập văn hóa” từ những dân tộc khác chứ chưa bao giờ làm được điều ngược lại. Một cách cụ thể, lịch sử chúng ta chưa từng có cá nhân nào có thể đứng ra “lập thuyết” để mang đi xuất khẩu cho các dân tộc khác trên thế giới mà chủ yếu chỉ đi “mượn thuyết” và “dụng thuyết” thôi (ở đây tôi chưa bàn đến việc “dụng thuyết” như thế nào, có hiệu quả hay không hiệu quả?). Nho giáo là của người Trung Hoa, Phật giáo của ngưới Ấn Độ; chủ nghĩa Mác - Ăngghen - Lênin mà từ lâu chúng ta xem là “kim chỉ nam” thì mọi người đã biết là của ai rồi...
Nói điều này để thấy rằng, chúng ta rất cần phải phản tỉnh một cách nghiêm túc về lịch sử 4000 năm văn hóa của cha ông để hiểu rõ hơn vị thế của dân tộc Việt Nam trên trường quốc tế. Chúng ta có quyền chính đáng để tự hào về những thành tựu của cha ông để lại trong 4000 ngàn năm qua nhưng không nên tự mãn một cách thái quá để rồi vô tình đánh mất đi lòng tự trọng của giống nòi.
Có cảm giác sau khi giành thắng lợi trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc ở thế kỷ 20 chúng ta đã “ngủ quên trên chiến thắng”, thậm chí là ngủ một giấc rất dài? Để khi dụi mắt thức dậy ngó xung quanh mới hay mình đã bỏ lỡ rất nhiều cơ hội vì trong lúc say sưa chìm đắm trong giấc mộng vàng son của quá khứ thì thiên hạ đã vượt mặt và bỏ xa chúng ta từ rất lâu rồi.
Một dân tộc, một đất nước có bề dày lịch sử và văn hóa rất lâu đời, vậy mà khi “mở cửa” trao đổi, hợp tác làm ăn với bên ngoài, những lúc cần nhập thì nhập “ông chủ”, nhập “chuyên gia” còn khi xuất thì chủ yếu là xuất... “ôsin” (thậm chí giờ đây việc “xuất ôsin” này đang có nguy cơ bị người Hàn Quốc từ chối nữa). Tại sao như vậy? Đã có ai nhìn thấy “chuyện rất lớn” này của một dân tộc 4000 năm văn hiến chưa? Có thấy đau đớn và chua xót không?
Từ góc nhìn văn hóa – giáo dục, chúng ta giải thích như thế nào về chuyện này đây? Chúng ta không có nhân tài thực sự; Hay lẽ ra chúng ta có thể đã có nhiều nhân tài nhưng do “môi trường” – điều kiện tối ưu (cả về vật chất lẫn tinh thần) không được đảm bảo? Nói cho công bằng, có lẽ cách giải thứ hai có vẻ hợp lý và dễ chấp nhận hơn.
Vì thế, nhất định chỗ này chúng ta phải nghiêm túc nhìn lại mình chứ không thể ngày này qua tháng nọ ôm khư khư những ánh hào quang của cái thời xa lắc xa lơ và nhất là xem đó như một cứu cánh của dân tộc. Và thay vì cứ ôm khư khư những những ánh hào quang xưa cũ ấy mà tự hài lòng, thoả mãn một mình sao không làm mới nó; tức là lẽ ra phải “hiện đại hóa truyền thống” bằng một cái đầu “khai phóng” để bạn bè thế giới hiểu rõ hơn về mình?
Cho nên, trong khi người ta đã lên tới mặt trăng, lên tới sao hỏa tìm sự sống còn mình vẫn đang loay hoay tìm miếng ăn dưới mặt đất, loay hoay thoát nghèo. Thiết nghĩ, dù muốn dù không chúng ta cũng phải biết xấu hổ về sự thua kém này. Xấu hỗ ở đây hoàn toàn không phải là sự tự ti hay mặc cảm mà là sự tự trọng; tự nhận thức, tự ý thức về giá trị, về vị thế của mình. Phải chăng đó mới thật sự văn hóa mà cha ông đã gầy dựng và để lại cho con cháu trong suốt 4000 năm; là văn hóa của một dân tộc “biết người biết ta, trăm trận trăm thắng”?; là “khiêm tốn, thật thà, dũng cảm” – như cách nói  sau này của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong 5 điều căn dặn các học sinh?

Thay đổi hay là sống... dật dờ?
Tóm lại, từ những vấn đề trên, tôi cho rằng những ai đang tự ru ngủ mình bằng cái “công thức” đào tạo nhân tài đầy hoang tưởng cũng như suốt ngày mê đắm và thoả mãn trong những ánh hào quang xưa cũ hãy mau chóng tỉnh dậy; phải tự phản tĩnh để mở ra bước ngoặc thay đổi cho giáo dục, từ đó thay đổi vận mệnh dân tộc. 
Cá nhân người viết cho rằng, tương lai dân tộc Việt Nam có thể “nở mày nở mặt” với các dân tộc tiến bộ khác trên thế giới hay không điều này hoàn toàn phụ thuộc vào công cuộc “đổi mới và cải cách toàn diện nền giáo dục” mà sắp tới đây mà Đảng và Nhà nước xem như một trong những nhiệm vụ chính trị hàng đầu. Đây cũng chính là điều mà nhân dân cả nước đang rất trông chờ và kỳ vọng?
Thiết nghĩ, đã đến lúc chúng ta phải mạnh dạn đưa ra quyết định để lựa chọn; hoặc là chúng ta có một nền giáo dục hiện đại, tiến bộ - một nền giáo dục “khai phóng” nhằm “trả cái đầu lại cho cái đầu” (lời của GS Cao Huy Thuần), phát huy nội lực 4000 năm văn hóa của cha ông tích tụ trong bản thân mỗi người dân Việt Nam; hoặc là, cứ để cho tương lai và vận mệnh dân tộc chìm nổi dật dờ theo kiểu “nước trôi đến đâu lục bình trôi đến đó”?
----------------------
Chú thích:
(*): Thơ Nguyễn Duy - “Đổi mới thật không hay giả vờ đổi mới/ Máu nhiễm trùng ta có thể thay chăng?”( Nhìn từ xa Tổ quốc).

Nguồn: vanhoanghean

Thứ Sáu, 22 tháng 2, 2013

Có bữa ăn nào miễn phí?

Dư luận đang um xùm vị kênh truyền hình K+ đang trên con đường giành được độc quyền phát sóng giải ngoại hạng Anh. Dư luận trong nước nói chung có vẻ không có thiện cảm với việc này.

Ở đây, có 2 vân đề có lẽ cần làm rõ: Việc đàm phán để giành được độc quyền, và cái giá phải trả cho việc đó.

Chúng ta vừa mới thoát được cái bóng bao cấp. Xem ra, dân ta một mặt sợ và muốn thoát khỏi nó. Nhưng ẩn chứa sau tất cả, có vẻ như chúng ta lại luôn muốn có những "bữa ăn miễn phí" trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường.

Có ai nghĩ, trước đây, làm sao chúng ta được xem giải Ngoại hạng Anh miễn phí như thế hay không, bản quyền ở đâu mà ra. Nếu không phải là "ăn trộm", thì cũng là các đài trong nước sử dụng nguồn tiền nhà nước mua. Nguồn kinh phí đó thực ra là bổ đầu cho tất cả 80 triệu người. Như thế, có một bất công là những người không muốn xem bóng đá cũng phải trả tiền. 

Theo quan điểm này, chính việc người nào có nhu cầu phải trả tiền. Theo đó, việc giá và dịch vụ của sản phẩm sẽ khiến cho người dùng có quyết định trả tiền hay không? Đơn vị cung cấp đưa ra sản phẩm với chi phí quá cao và chất lượng không tốt, thì hẳn sẽ chẳng có ai mua.

Vấn đề thứ hai, khi các nhà đài không ngồi chung bàn với nhau được, khiến bị ép giá thì đó là cái giá phải trả cho chính sự mất đoàn kết bên trong. Điều đó cho thấy, tính hợp tác của chúng ta quá yếu kém, dẫn tới thất thoát nguồn lực xã hội.

Còn trong hoàn cảnh hiện nay, VTV cũng như một số đài "quốc doanh" làm ầm ĩ lên, có vẻ như họ đang muốn sử dụng cái lợi thế "chống lưng" để phá hoại đi sự cạnh tranh vốn có của nền kinh tế thị trường.

Đã chấp nhận tham gia cuộc chơi, cần tôn trọng những nguyên tắc vốn có của nó. Chúng ta luôn dựa dẫm vào những cảm xúc khi phán xét. Đó là điều hoàn toàn không tốt.


Cuộc đối thoại giữa Xiển Giáo và Triệt Giáo

Hồi 77, Phong Thần Diễn Nghĩa, có cuộc đối thoại giữa Thông Thiên Giáo chủ và Nguyên Thỉ (giáo chủ của Xiển Giáo), đặt ra vấn đề của Đạo:
 
Thông Thiên giáo chủ thấy Nguyên Thỉ liền bái và nói:
- Tôi chào đạo huynh.
 
Nguyên Thỉ nói:
- Sư đệ lập làm chi trận dữ như vậy? Khi trước chúng ta đồng họp mặt trên Bích Du cung, nghị lập bảng Phong thần, chia ra ba bậc, ai có đức thì làm tiên, ai ít đức công quả thì làm thần, nếu ai quá nữa thì làm quỷ. Nay Trụ Vương vô đạo, khí số hết rồi, Châu Võ hành nhơn, số trời đã định, lẽ nào sư đệ không biết hay sao mà lập trận lớn đón đường Tử Nha? Trước khi luận bảng Phong thần, sư đệ đã thỏa thuận với số 365 người lên đài Phong thần trong đó Triệt giáo có tên những người không được thành chánh quả cũng nhiều sao nay sư đệ lại quên lời, thất tín? 
.......

Thông Thiên giáo chủ nói:
- Quảng Thành Tử đã mắng ta không biết phải quấy, chẳng luận hiền ngu, dạy học trò có lông, có sừng ở chung với cầm thú. Ta nghĩ lại, thầy ta truyền đạo cho ba anh em ta, sau chia làm hai, kẻ dạy Xiển giáo tu hành, người dạy Triệt giáo an bang tế thế. Tuy chia làm hai cách dạy, cũng một gốc mà ra. Nếu nó nói ta ăn chung ở lộn với cầm thú thì sư huynh lại khác hơn sao? 
 
Nguyên Thỉ nói:
- Sư đệ đừng trách Quảng Thành Tử, chính tại học trò sư đệ ngang dọc, ỷ mạnh hiếp người, thiệt là lòng cầm thú, sư đệ đụng đâu dạy đó, chọn kẻ không biết điều, nên kiếm chuyện thị phi thêu dệt hại muôn dân đồ thán.
 
Thông Thiên giáo chủ vừa cười vừa đáp:
- Sư huynh nói sai rồi. Ðạo là một đường sáng cần phải mở rộng cho chúng sanh vào khoảng ánh sáng ấy. Ðạo dạy người, sửa đời, thì bất kỳ những ai muốn đắc đạo đều có quyền hành đạo, tại sao lại hạn chế, chỉ lựa những người có đức hạnh? Ðạo giúp người hay người giúp đạo? Nếu chỉ lựa những người đạo đức mới cho hành đạo thì té ra sai lạc ý nghĩa của đạo rồi. Ðạo đâu phải là một triều đình mà bảo phải lựa người tài đức để cai trị, mà đạo chính là chỗ đào tạo người bất tài, thiếu đức trở thành người tài đức kia mà. Ðạo huynh nên xét lại điểm ấy. Còn học trò đạo huynh khinh học trò tôi là loài có lông, có sừng, tôi thiết tưởng mọi sinh vật trong vũ trụ đều bình đẳng trước đạo đức, trong lãnh vực đạo đức không thể phân chia trên dưới, dầu là loài có lông, có sừng cũng được quyền làm việc đạo, thì lời khinh miệt ấy rất trái lẽ. Ðến như đạo huynh, trước mặt tôi mà đạo huynh còn mắng học trò tôi là cầm thú thì bảo sao ý thức ấy không ăn sâu vào tư tưởng của môn đồ Xiển giáo? 
 
Nguyên Thỉ nói:
- Sư đệ quá nghe lời học trò mình mà nóng nảy tai hại đến công việc tu hành. Tôi thiết tưởng một kẻ chân tu không bao giờ thiên lệch, đã thiên lệch tất nhiên trái với con đường hành đạo. Lẽ học trò mình chưa thuần thục về đạo đức, sư đệ phải đem luật lệ ra dạy dỗ, làm cho chúng nó đi trên con đường ngay, sao lại vì lời thêu dệt của chúng mà lập trận dữ, trái mệnh trời? 
 
Thông Thiên giáo chủ nói:
- Hành đạo là nhiệm vụ thiêng liêng và trường cửu của người dẫn đạo, không phải một thời gian mà hoàn tất. Nó như một con đò đưa khách sang sông, thì biết bao giờ dứt được. Lúc bắt đầu tức là lúc đã đến, mà lúc đã đến là bắt đầu. Ðạo huynh bắt đầu trách tôi thiên lệch, nhưng nếu tôi cứ nhắm mắt làm ngơ, để cho môn đồ tôi bị áp chế mãi mãi, môn đồ tôi sẽ có quan niệm rằng tu hành là ép mình vào một khuôn khổ để cho mọi
 người hà hiếp, như vậy có bảo tồn được đạo giáo không? 
 
 Ai đúng, ai sai?


Thứ Tư, 20 tháng 2, 2013

Truyện kể về Tây Bá Hầu Cơ Xương

1. Phong Thần Diễn Nghĩa kể rằng, 4 chấn chư hầu dâng sớ can ngăn vua Trụ, chỉ còn có Tây Bá Hầu Cơ Xương và Bắc Bá Hầu Sùng Hầu Hổ là còn sống.

Trước khi đến Triều Ca yết kiến vua Trụ, Cơ Xương đã xem quẻ và biết mình bị hạn 7 năm, sau đó mới được trở về Tây Kỳ. Bí Trọng và Vưu Hồn là 2 tên nịnh thần đã bày mưu giam Cơ Xương ở thành Dũ Lý, tránh chuyện thả hổ về rừng.

Trước khi đi, có dặn dò con là Bá Ấp Khảo ở nhà trông nom việc triều chính. Thế nhưng, sau 7 năm, Bá Ấp Khảo vì quá nhớ thương cha đã đến Triều Ca. Và vì không chấp nhận chuyện trai gái với Đắc Kỷ nên đã bị giết chết.

Bí Trong và Vưu Hồn bày mưu đem thịt Bá Ấp Khảo làm bánh, đưa cho Cơ Xương. Nếu Cơ Xương ăn chứng tỏ ông không có khả năng đoán liệu thiên cơ. Còn nếu không ăn, thì vua Trụ sẽ giết trừ bỏ đi mối hậu họa.

Cơ Xương biết vậy nên đã ăn bánh có làm từ thịt con mình, và trong lòng vô cùng tiếc nhớ.

Sau này, khi về đến Tây Kỳ, ông đã nôn 2 lần, và miếng bánh đều biến thành con thỏ chạy đi. Cơ Xương trong bụng có ý tiếc cho con tại sao không nghe lời mình, mà lại đến Triều Ca để rồi mất mạng.

2. Như trong Phong Thần, Cơ Xương đã biết mình mắc cái nạn 7 năm bị giam cầm ấy. Nhưng ông không nguôi ngoai nỗi tiếc nhớ con.

Nhưng trong tình huống, nếu không có chuyện Bá Ấp Khảo bị giết, và vua Trụ cho người làm bánh thử Cơ Xương, thì liệu cái quẻ của Cơ Xương có ứng nghiệm không?

Lý ra, ông cần phải thấy trong cái sự thành bại ấy, mất con là một trong những yếu tố cần phải có.

3. Bốn mươi năm trước nhà thơ Nguyễn Đình Toàn đã viết: "Có biết đâu niềm vui đã nằm trong thiên tai. Những cánh dơi lẻ loi mù trong bóng đêm dài. Lời nào em không nói em ơi tình nào không gian dối …Lúc tóc chưa đổi thay. Lúc môi chưa biết dối theo lời." Mà về sau này, Từ Công Phụng đã phổ nhạc cho bài Tình Khúc Thứ Nhất.

Cuộc đời vốn trắc trở, luôn thử thách mỗi mức giới hạn của con người. Và sau bao nhiêu trải nghiệm, con người ta có thể tìm thấy "niềm vui trong thiên tai". Nếu không có khổ đau, sao biết tới hạnh phúc.

Và thế giới đã sinh ra hẳn một cái gọi là "chủ nghĩa duy nghiệm", để luận về mối tương quan giữa nguyên nhân và kết quả đó sao?


Thứ Bảy, 16 tháng 2, 2013

Đái tao cắt dái

1. Đầu năm kể chuyện Trạng Quỳnh. Trạng Quỳnh nhiều lần thất lễ với chúa, nên trước Chúa quý trọng bao nhiêu thì sau lại ghét bấy nhiêu. Quỳnh thấy Chúa ghét, lại càng trêu tợn.

Một lần, Chúa sai lính đến ỉa giữa nhà Quỳnh. Quỳnh cầm dao ra bảo lính:

- Chúa sai các anh đến ỉa giữa nhà ta, thì cứ việc ỉa, nhưng cấm đái, anh nào mà đái ta cắt dái đi.

Ỉa ai mà nhịn đái được, bọn lính phải cắp đít về. Có một vài anh láo, nghe thấy thế, đái ở trước nhà, rồi mới đến ỉa, lại đem gáo dừa đề phòng. Quỳnh thấy nó lập mưu trước, đành chịu nhưng trong bụng căm lắm, bèn kiếm cách xược lại Chúa. ít lâu sau, Quỳnh đi mua một cây cải thật to sai người đem dâng, làm cơm chúa xơi. Khi Quỳnh vào hầu, Chúa hỏi cải đâu mà to lạ thế và khen ngon.

Quỳnh thưa:

- Cải nhà trồng, trước nó không to mấy, nhờ độ nọ Chúa sai lính đến ỉa nhà thần, thần đem phân ấy bón cho, nên lớn bổng lên thế. Cây nhà lá vườn đem dâng để chúa xơi.

Chúa Trịnh tái mặt lại.

2. Hôm nay, 17-2-1979, là ngày kỷ niệm 34 năm cuộc chiến tranh Trung Quốc chống xâm lược. Vậy mà chẳng thấy báo đài nào nhắc tới, ngoài báo Thanh Niên.

Phàm nhà báo là người cầm bút, sử gia nghiên cứu lịch sử, nhưng tất cả đều câm lặng. Đã có một thời cả nước sôi sục, chứ không đơn thuần chỉ là một sự kiện nhỏ ít người biết tới.

Thế nên, bải chuyện ỉa không được đái tưởng như phi lý, nhưng hóa ra lại là thật ở xứ mình. Đó là những người mang danh cầm bút, nghiên cứu lịch sử, lại không thể thực hiện cái trách nhiệm chính danh.

Xem ra, chỉ có mỗi tờ Thanh Niên là có được tinh thần của Trạng Quỳnh, dám bỡn Chúa. Chẳng biết sau khi Chúa Trịnh tái mặt, sự thể sẽ ra sao với tờ báo xứng đáng với 2 chữ "Thanh Niên" này?!


Thứ Tư, 6 tháng 2, 2013

Khi món khai vị bị thiu

Người Tây nghĩ ra món khai vị trước bữa chính, cốt để kích thích sự ngon miệng. Đó là Tây, còn Ta thì không.

Khi cầm một cuốn sách, phần Lời mở đầu, Lời Nhà Xuất Bản cũng giống như món khai vị, tăng sự kích thích, trí tò mò của độc giả để đưa dẫn họ đến với tác phẩm. Anh nào hay mua sách, thường dựa nhiều vào sự tham khảo thông qua đọc phần này để quyết định, có lựa chọn nội dung cuốn sách không.

Còn đa phần chúng ta, cũng giống việc trong bữa ăn hàng ngày không dùng món khai vị, chẳng mấy khi chú ý đến phần này. Nhưng thực, cái gì cũng có tính hai mặt. Vì bỏ qua, nên có thể ta sẽ tránh được món khai vị bị... thiu.

Một lần như thế, đó chính là nội dung phần Lời Nhà Xuất Bản trong cuốn "Bên kia Thiện Ác" của Nietzsche, được phát hành bởi NXB Văn hóa Thông tin. Trong đó có đoạn:

"F. Nietzsche tuyên bố "Thượng đế đã chết" để tôn xưng sức mạnh của con người. Con người sẽ thay thế thượng đế.... và "con người này" được quyền làm tất cả, chà đạp lên các giá trị đạo đức truyền thống, thống trị những người (yếu hơn) khác. "Kẻ mạnh là kẻ đúng, kẻ mạnh là đạo đức", đây gần như là tuyên ngôn toát ra từ các tác phẩm của F. Nietzschevà tư tưởng duy ý chí cực đoan này đã trở thành vết tỳ ố của nền văn minh nhân loại. Từ những tư tưởng loại này góp phần dẫn tới những vụ diệt chủng của Đức quốc xã trong thế chiến thứ II và vụ diệt chủng ở Campuchia trong nhãng năm gần cuối thế kỷ XX...."


Bàng hoàng!

Dù chưa được tiếp cận nhiều với Nietzsch, nhưng rõ ràng ông là một nhà triết học có đóng góp không nhỏ cho nền triết học thế giới. Nhưng rõ, với lời giới thiệu như trên, người ta đã đứng trên quan điểm triết học khác, quan điểm giai cấp để phỉ báng ông.

Hoặc ông viết lời tựa của NXB này chẳng có thời gian và bận tâm tới việc đọc tác phẩm và lấy bừa câu của bác nào đó mà phang vào. Mà ngay cả đến Hội đồng xét giải của Hội nhà văn không đọc tác phẩm, mà cũng bỏ phiếu chấm đấy thôi.

Tuy nhiên, có một người bạn trong giới làm sách, đã đưa ra một ý kiến cũng khá chuẩn. Đó là họ cố tình viết "bôi nhọ" như vậy, để thoát khỏi sự kiểm duyệt phát hành. Vì mấy anh làm kiểm duyệt cũng chỉ đọc lướt qua, thấy ổn là cấp phép. Nếu quả thật như thế, thì đáng thương cho nền học thuật và tri thức nước nhà. Bởi tất cả đều dối trá.

Và khi đó, người đọc không chỉ bị ăn phải món tráng miệng bị thiu, mà ngay cả món chính cũng chẳng ra gì!

Thứ Ba, 5 tháng 2, 2013

Có quỵt được không?

Nghe ông Hoàng Quốc Long, Phó vụ trưởng Công chức, viên chức (Bộ Nội vụ) nói: Chỉ vì thông tin "chạy công chức 100 triệu đồng" mà đội ngũ công chức nói chung mang tiếng xấu.

Thú thực, không thể kết luận rằng, toàn bộ đội ngũ công chức đều là người bất tài và chỉ có dùng tiền để chạy vào vị trí đó. Và khi người ta đề cập tới chuyện, 100 triệu chạy công chức, là đang nói tới một hiện tượng có tính phổ biến. Bởi chẳng có một định đề nào đúng cho tất cả mọi trường hợp.

Cái mà người ta muốn ám chỉ khi nêu ra vấn đề, đó là vấn đề tham ô, tham nhũng. Có thể anh không phải bỏ số vốn ban đầu để mua cái vị trí đó. Nhưng khi ngồi vào cái ghế đó rồi, nằm trong cơ chế đó, anh có thoát khỏi cái "lệ làng" mà chẳng vua nào định được ra "phép" để kiểm soát.

Minh chứng cho việc đó, chính là câu chuyện "Chi tiền tỉ mua quà biếu sếp" đăng trên Vietnamnet. Đó chính là những con đông trùng hạ thảo có giá 1,2-1,8 tỷ đồng/kg; hay những nhung hươu giá từ 90-170 triệu đồng/kg hay yến sào huyết giá 190 triệu đồng/cân/hộp.

Tất nhiên, không phải ai cũng có đủ tiền để mua những món hàng "khủng" đó, nhưng chắc chắn 100%, những người làm việc trong các cơ quan nhà nước, không ai dám vắng mặt ở nhà sếp trong những dịp cuối năm. Đó có thể là những chai rượu Tây giá vài trăm ngàn, hay cây quất giá hàng triệu, hoặc những cành đào vài ba triệu đồng.

Đó có thể là nhân viên trong công ty quà cáp sếp trên mình, hoặc những công ty muốn tìm sự ủng hộ trong đấu thầu mà tìm đến chủ đầu tư hay người có liên quan. Ai làm việc trong lĩnh vực thầu, có ai không biết tới việc tìm đến những người có thể "ra đầu bài" cho các gói thầu đó.

Những điều cấm như: cán bộ ngành GTVT không được chơi gôn, hay quan chức Hà Nội không được sử dụng động vật hoang dã chỉ là những mệnh lệnh hành chính, đôi khi chỉ là sự tô điểm cho một vở kịch tồi mà khán giả chỉ liếc qua tờ poster, chứ chẳng bao giờ mua vé đi xem.

Khi còn tồn tài một cơ chế không xóa bỏ được sự quan liêu, bao cấp, thì hiện tượng trên sẽ chẳng bao giờ giảm thiểu được. Còn nhớ, có những công ty dược của Mỹ đã bị chính phủ nước họ phạt, vì đã lobby chính quyền ở các thị trường nước ngoài, qua đó đã tạo nên sự cạnh tranh không lành mạnh.

Và những người công chức tham gia vào hệ thống, sớm hay muộn, họ vẫn phải chi tiền cho những việc mà bản thân họ không muốn-"Tiền đi liền khúc ruột". Chẳng bao giờ có thể quỵt được những vị sếp, mà chính họ cũng đã phải "đầu tư" cho cái ghế họ đang ngồi.

Tôi từng nghe chuyện, một cô hiệu phó chẳng buồn chạy để lên hiệu trưởng, vì số năm còn lại trên cương vị đó không thể thu hồi lại được số tiền phải bỏ ra để mua ghế.

Gần 2 tỷ đồng cho 1 cần đông trùng hạ thảo - Ảnh:vietnamnet

Thứ Hai, 4 tháng 2, 2013

Hiến pháp sao phải sửa?

TS Nguyễn Sỹ Phương, CHLB Đức
 
Hiến pháp không phải sản phẩm tự nhiên mà do con người tạo ra phục vụ lợi ích nó, tất phải thay hoặc sửa, một khi lợi ích đó đòi hỏi.

Gần đây nhất, như hầu hết mọi cuộc cách mạng xã hội, Ai Cập đã hủy bỏ Hiến pháp năm 1971 thay bằng Hiến pháp mới có hiệu lực từ ngày 26.12.2012, sau khi lật đổ chế độ Mubarak. Hiến pháp là văn bản luật gốc làm nền tảng pháp lý cho một nhà nước, quy định bộ máy của nó, cùng các chuẩn mực, thước đo, quy tắc xử sự nhà nước phải tuân thủ, nên một khi chế độ bị lật đổ buộc phải thay bằng hiến pháp mới, là tất yếu. Ở đây, Hiến pháp là hệ qủa của cách mạng xã hội.

Khác với lật đổ chế độ ở Ai Cập, cách thập niên trước, các quốc gia thuộc Liên bang Xô viết và các nước Xã hội Chủ nghĩa Đông Âu đều thay hiến pháp, được cựu Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An cắt nghĩa “để xác lập chính thể mới phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm sửa cái lỗi hệ thống của họ. Một bài học quá đắt giá trong lịch sử nhân loại (Tuần Việt Nam)“. Tương tự, năm 2008, Chính phủ Quân sự Miến Điện đã chủ động trưng cầu dân ý hiến pháp mới, có hiệu lực từ tháng 1.2011, khởi đầu cho quá trình chuyển đổi chế độ quân sự cầm quyền dai dẳng tới nửa đời người từ năm 1962 bị thế giới cô lập, sang dân sự, với cuộc bầu cử Quốc hội bổ sung ngày 1.4.2012, có 17 đảng phái tham gia, chiếm 45 ghế, trong đó có “cựu thù“ chống chế độ quân phiệt, người đoạt giải Nobel Hoà Bình, bà Aung San Suu. Ở các nước trên, hiến pháp đều đóng vai trò chủ động tạo ra một thể chế mới xuất phát từ ý chí nguyện vọng của đông đảo người dân mà lãnh đạo đất nước họ tự ý thức được, nếu không sẽ không tránh khỏi bị lật đổ.

Và hiến pháp mới ở hầu hết các nước đó, hiến pháp mới đều được phúc quyết, dấu hiệu không thể thiếu của một nhà nước dân chủ, bởi đó là quyền tự thân của người dân; nhà nước của họ, do họ sinh ra vì chính họ chứ không phải ngược lại; không lý gì là chủ nhân, họ vừa không phải tự chịu trách nhiệm vừa không có thực quyền quyết định cái của họ. Trong trường hợp này vai trò ý nghĩa của nó tương đương bầu tổng thống, quốc hội, khác bản chất với vua chúa lên ngôi chỉ cần tuyên cáo với bá tính là đủ, điều đó giải thích cho việc tại sao Hiến pháp Việt Nam năm 1946 có điều khoản phúc quyết, hay Hiến pháp Đức điều khoản 146 quy định hiến pháp họ không phải vĩnh viễn, mà chỉ: “có hiệu lực tới ngày có một hiến pháp mới được nhân dân Đức tự do quyết định“. Nghĩa là người dân chứ không phải nhà nước, có quyền quyết định tất cả - dấu hiệu phân biệt với mọi hiến pháp khác - hiến pháp dân chủ luôn thừa nhận người dân ở vai trò tối thượng có toàn quyền giữ hay hủy bỏ hiến pháp hiện hành bất cứ lúc nào.

Hiến pháp có thể là hệ quả, có thể là mở đầu hình thành nên một nhà nước mới, nhưng hoàn toàn không bất biến. Đến quốc gia có hiến pháp được coi bền vững bậc nhất thế giới là Hoa Kỳ, trong vòng 200 năm từ 1791 tới 1992, cũng sửa tổng cộng tới 27 lần, nghĩa là 7-8 năm sửa 1 lần. Đức được cho là quốc gia điển hình sửa Hiến pháp, trong vòng 40 năm, từ 1951 đến 1990 sửa tới 38 lần, bình quân mỗi năm gần 1 lần, có năm sửa tới 3 lần; tổng cộng 14 lần sửa 1 điều, 8 lần 1 điểm, 4 lần 1 câu, số lần còn lại sửa cả đoạn. Khác với trường hợp thay hiến pháp nhằm thiết lập nền tảng pháp lý cho một chính thể mới, sửa hiếp pháp nói trên nhằm thay đổi hoặc mở rộng giới hạn một hoặc một vài chuẩn mực thước đo quy tắc xử sự “nhà nước được phép làm“. Lý do họ buộc phải sửa, xuất pháp từ nguyên lý: mọi điều khoản hiến pháp họ đều mang tính chế tài trực tiếp, không cần qua bất cứ văn bản luật nào dưới nó nếu không kèm phụ chú; buộc mọi cơ quan nhà nước kể cả tổng thống, quốc hội, chính phủ, viện kiểm sát, toà án phải tuân thủ, nếu không sẽ bị tài phán. Đến cựu Tổng thống Đức Köhler cũng buộc phải từ chức cách đây 2 năm  chỉ bởi phát biểu trước quân đội Đức đồn trú ở Afghanistan, sai hiến pháp đúng mỗi nửa câu, “… quân đội Đức có mặt ở nước ngoài để bảo vệ lợi ích kinh tế Đức“. Nói hiến pháp tối thượng, không hàm nghĩa thứ bậc, đạo luật gốc rễ nó vốn có, mà chính bởi sức mạnh thực tế vô biên của nó như vậy, nếu không thứ bậc cao siêu mấy cũng chỉ làm vì. Cách mấy năm trước, Bộ luật Xã hội Đức quy định không cấp tiền con cho người nước ngoài lưu trú có thời hạn; mãi không sao, tới khi có 2 gia đình người nước ngoài đâm đơn kiện, lập tức bị Toà án Hiến pháp buộc hủy bỏ. Tới năm ngoái, mức trợ cấp cho người nước ngoài chờ xét duyệt đơn xin tỵ nạn quy định trong Bộ Luật Xã hội thấp hơn tiêu chuẩn trợ cấp cho người Đức thất nghiệp lâu năm, cũng bị Toà án bác bỏ, với lập luận, hiến pháp quy định nhân phẩm con người không thể phân biệt; trợ cấp cho người thất nghiệp lâu năm là mức tối thiểu để bảo đảm nhân phẩm đó, vậy không có lý do gì cấp cho người chờ xét tỵ nạn thấp hơn. Mới đây nhất, ngày 29.12.2012, ở Pháp, Hội đồng Bảo Hiến đã ra phán quyết bác bỏ mức thuế 75% áp dụng cho nguời có thu nhập cao do Tổng thống François Hollande và Chính phủ cánh tả của ông chủ trương, với lý giải, không tôn trọng nguyên tắc bình đẳng về đóng góp đã được hiến định.

Chính do hiến pháp có chức năng chế tài trực tiếp đối với nhà nước, nên để bảo vệ văn bản luật mình ban hành, Quốc hội không còn cách nào khác phải thay hoặc sửa điều khoản hiến pháp đã giới hạn nó. Tuy nhiên không phải nhà nước họ cứ muốn sửa là sửa, bởi hiến pháp của dân do dân phúc quyết chứ không phải của riêng nhà nước, nên dù sửa cũng không được phép vượt ra ngoài khuôn khổ chính bản thân hiến pháp cho phép, nếu không sẽ bị tuyên phán vô hiệu. Năm 1996, Bộ trưởng Nội vụ Đức đưa vào Luật An ninh hàng không điều khoản cho phép quân đội bắn hạ máy bay chở khách bị bọn khủng bố cướp, kết qủa bị Toà án Hiến pháp bác bỏ, do vi phạm hiến pháp về quyền được sống của con người, không thể lấy mạng sống người này cứu mạng sống người khác. Tiếp tục theo đuổi mục đích trên, năm 2007, Bộ trưởng Nội vụ xếp khủng bố cướp máy bay vào tình huống thảm hoạ quốc gia, xoay sang đòi sửa đổi điều 87a Hiến pháp vốn cấm sử dụng quân đội ngoại trừ bảo vệ tổ quốc, nay cho phép cả khi xảy ra thảm hoạ. Mãi tới tháng 8.2012, Toà Hiến pháp mới ta tuyên phán đồng ý sửa Hiến pháp cho phép sử dụng quân đội trong trường hợp thảm hoạ đe doạ quốc gia, nhưng vẫn cấm bắn máy bay chở khách, bởi quyền được sống thuộc điều khoản cấm sửa đổi, bất di bất dịch, ngoại trừ trên máy bay chỉ có mỗi khủng bố. Ở Mỹ, vụ cuồng sát gần đây nhất tại trường tiểu học Sandy Hook giết chết 27 nhân mạng làm chấn động không chỉ nước Mỹ, nhưng Chính phủ Mỹ vẫn không thể cấm sở hữu vũ khí, bởi tu chính Hiến pháp số II quy định: “người dân có quyền sở hữu và mang theo vũ khí“. Điều khoản này đã qua bao đời tổng thống vận động hủy bỏ đều bất thành, bởi quyền sở hữu được coi là quyền người dân, không được xâm phạm. Ở Miến Điện, để có thể bầu bà Aung San Suu Kyi có chồng và con là người Anh, làm tổng thống nhiệm kỳ tới, Tổng thống đương nhiệm Thein Sein đã tuyên bố cần phải sửa đổi điều khoản Hiến pháp cấm người có thân nhân nước ngoài giữ chức vụ cao. Thế giới đang phấp phỏng chờ đợi, bởi mức độ sửa đổi hiến pháp theo hướng dân chủ tùy thuộc mức độ dân chủ người dân giành được vốn quyết định số phận mỗi quốc gia.

Việc sửa hiến pháp gần đây nhất dẫn tới thay đổi bản chất nó được thế giới đặc biệt quan tâm diễn ra tại 2 nước Venezuela và Thổ Nhĩ Kỳ. Ở Venezuela, năm 2009, bản Hiến pháp năm 1999 được đưa ra trưng cầu dân ý sửa đổi điều 160, 162, 174, 192 và 230 nhằm bảo đảm cho đương kim Tổng thống Hugo Rafael Chávez Frías không bị giới hạn 2 nhiệm kỳ, có thể tại vị tới tận năm 2050 lúc 95 tuổi, và được phép nắm quân sự nhiều hơn, kiểm soát truyền thông trong các trường hợp khẩn cấp, xóa quy chế ngân hàng trung ương tự chủ, để đưa đất nước tiến vững vàng lên chủ nghĩa Xã hội như ông chính thức tuyên bố. Tại Thổ Nhĩ Kỳ, hiến pháp sửa đổi 26 điều khoản được đưa ra trưng cầu dân ý năm 2010, nhằm tước bỏ quyền lực của giới quân sự tưởng chừng như bất khả xâm phạm xưa nay.

Còn sửa hiến pháp toàn diện nhằm cải tổ, nhưng vẫn giữ nguyên bản chất, đã được Liên Xô thực hiện vào năm 1990, với 75 điều khoản được sửa đổi trên tổng số 174 điều, chiếm 43%, kết quả chỉ tồn tại được tới ngày 5.9.1991. Đa số học giả cho đó là quá trình cải cách, kiểu vượt qua một chiếc hố bằng 2 bước nhảy.

Hiện nay, Quốc hội nước ta đã ra nghị quyết tổ chức lấy ý kiến nhân dân, sửa đổi Hiến pháp năm 1992, với tổng số 124 điều được sửa hoặc thêm bớt lời văn, hoặc bổ sung hoàn toàn mới, hoặc thay đổi vị trí điều, mục, đoạn, câu; liệu việc sửa Hiến pháp như vậy có nằm trong trường hợp nào thế giới đã trải qua? Trong thời đại toàn cầu hoá, không thể không đặt ra câu hỏi trên, ít nhất có thể biết Việt Nam đứng đâu trên bản đồ hiến pháp thế giới, để có thể “sánh vai các quốc năm châu“.

Trong khi các nước thay, sửa hiến pháp được đặt ra bởi cách mạng xã hội, hoặc để tạo ra thể chế mới, hoặc nhằm cải cách, hoặc để ban hành luật vượt ra ngoài giới hạn điều khoản hiến pháp hiện hành, hoặc thay đổi bản chất hiến pháp cũ… mục đích sửa hiến pháp nước ta lần này viết ở Lời nói đầu khác họ ở điểm: “… ghi nhận những thành quả to lớn mà nhân dân Việt Nam đã đạt được, tạo nền tảng vững chắc cho sự ổn định và phát triển đất nước“, và giống với họ ở điểm “Xây dựng và thi hành hiến pháp vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh“, vốn là mục đích tự thân sâu xa của bất kỳ bản hiến pháp nào, được thể hiện thành văn hoặc mặc định.

Với mục đích trên, điều 2 Nghị quyết của Quốc hội lấy ý kiến nhân dân quy định, để “Phát huy quyền làm chủ, huy động trí tuệ, tâm huyết của nhân dân, tạo sự đồng thuận của nhân dân, thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân trong việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992“. Tinh thần trên, có thể tìm thấy phần nào ở Hiến pháp Nam Phi trong công đoạn lấy ý kiến nhân dân. Hội đồng Lập hiến họ đã thực hiện được hơn 1.000 cuộc hội thảo với 95.000 người dân tham gia; nhận được khoảng 2 triệu thư kiến nghị / tổng dân số 46 triệu người. Sau khi sửa lần 2, nhận được tiếp 250.000 ý kiến đóng góp. Liệu nghị quyết của Quốc hội nước ta có thu được kết qủa như Nam Phi? Đó là điều không chỉ các cơ quan nhà nước liên quan mà bất cứ người dân nào tâm huyết cũng phải trăn trở, được Cựu Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An giải bày: “Nếu nhân dân được tham gia và phúc quyết sửa đổi Hiến pháp lần này thì đây là một cơ hội to lớn do ta tạo ra để thúc đẩy mạnh mẽ và toàn diện công cuộc đổi mới đất nước“. Liệu tâm nguyện của một Cựu Chủ tịch Quốc hội có được chính Quốc hội lắng nghe? Khi điều 124, điểm 4, câu 2, bản Dự thảo hiến định “Việc trưng cầu ý dân về hiến pháp do Quốc hội quyết định“; vậy nếu Quốc hội từ chối thì sao đây? Ngày nay, phúc quyết là dấu hiệu không thể thiếu, tức điều kiện cần, của bất kỳ một bản hiến pháp dân chủ nào, được khoa học chuyên ngành luật pháp thừa nhận!

Nguồn: tiasang.com.vn

Chủ Nhật, 3 tháng 2, 2013

Câu chuyện ý chí

Hoàng Hồng Minh

Câu chuyện nào thì cũng là vô tận. Nữa là câu chuyện về “ý chí”.

Về đại thể, có thể xem ý chí như một chủ ý dẫn dắt một quá trình hành động, bắt đầu từ quan niệm  về hành động (“hiểu biết”, có thể còn rất mơ hồ), đến hình dung trước về kết quả hành động (“chủ đích”, có thể rồi cũng hóa ra thật mơ hồ), rồi quyết định hành động (“quyết đoán”, về bản chất là “tự quyết”, liên quan đến “tự do”), và nhận lĩnh trách nhiệm về hành động (“đạo hạnh”).  Ý chí là kẻ chủ trì toàn bộ quá trình này.

Ý chí xúc cảm

Câu chuyện ngày xưa ông Ngu rời núi, thật là chuyện vĩ đại, ở cái thời chỉ có xẻng cùn, sọt nát, cùng người nhà thưa thớt của ông. Nhưng ông Ngu đã “thấy” cả một tương lai bất tận, nơi đó con mình, cháu mình, chắt mình, chút mình, chít mình... rồi sẽ nối việc… Và ông Ngu cứ việc hành chí rời núi.

Ý chí xúc cảm hoạt động “bằng mọi giá”, dựa trên tờ thanh toán đã được kí khống. Ý chí trí tuệ hoạt động bằng hiệu năng, với “cái giá thấp nhất có thể”, dựa trên sự kiểm tra, đo đạc, xét đoán về môi trường.
Ý chí này, ý chí xúc cảm. Một mục tiêu được đặt ra, mọi giá cả, mọi khó khăn, mọi ngặt nghèo về không gian, mọi rắc rối về thời gian, và cả việc làm sao để nghiệm thu, đều không thành vấn đề... Tinh thần của ý chí xúc cảm có thể chốt lại như thế này: “tất-cả-để”.
Trong đời sống, của mỗi cá nhân, hay của mỗi cộng đồng, ở những thời điểm thử thách sống còn, ý chí xúc cảm là điều vĩ đại. Nó giúp mỗi người hay mỗi cộng đồng đủ sức để có thể vượt lên được từ nghịch cảnh vô cùng khắc nghiệt: Một người tay không bị trôi lênh đênh nhiều ngày đêm giữa biển cả, một vùng quê nước lụt trắng tràn, một thành phố chợt hóa thành bãi rác-nghĩa địa khổng lồ sau một cơn địa chấn-sóng thần kinh hồn... Không có nó, người ta chỉ còn biết nhắm mắt xuôi tay.

Ý chí trí tuệ

May mắn thay, thế giới con người ngày càng văn minh hơn, xét về tổng thể cho đến nay. Những đại họa do chính con người gây hấn vẫn rập rình đó đây, nhưng không còn là những biểu đạt chính yếu nhất của đời sống hôm nay trên toàn cầu. Dòng chảy của kiến thiết nay đã thành ra trọng yếu hơn dòng chảy của bạo hoại. Và trên cái nền tảng của dòng chảy kiến thiết, con thuyền loài người ngày càng cần đến hơn một ý chí khác: “Ý chí trí tuệ”, cái ít được biểu đạt trong ý niệm truyền thống về ý chí, đặc biệt là ở phương Đông xưa kia.

Xúc cảm và lý trí là hai lĩnh vực luôn giằng xé nhau. Cuối cùng thì chúng ta sẽ có một thứ ý chí tổng thể, ý chí này phải tìm cách đứng chân như thế nào trên cùng cả hai miền đất đang luôn luôn trôi dịch này.
Khác với ý chí xúc cảm, thứ ý chí “tất-cả-để” dựa trên biển cảm xúc đầy bản năng, ý chí trí tuệ hoạt động trên vòng vận động của quan sát, học hỏi, phân tích, đánh giá, lựa chọn, quyết định, tổng hợp, thiết kế lộ trình, điều hành, kiểm tra, điều chỉnh, nghiệm kết… Ý chí này là của lý trí, là của tự do, là của lý trí của tự do, là của tự do của lý trí, là cái chỉ có thể có ở con người.

Ý chí xúc cảm hoạt động “bằng mọi giá”, dựa trên tờ thanh toán đã được kí khống. Ý chí trí tuệ hoạt động bằng hiệu năng, với “cái giá thấp nhất có thể”, dựa trên sự kiểm tra, đo đạc, xét đoán về môi trường.

Ý chí xúc cảm cố gắng tổng huy động các cơn bão xúc cảm. Ý chí trí tuệ nhắm lấy sự tỉnh táo làm cột buồm thống lĩnh.

Ý chí xúc cảm gắng chiếm mọi không gian hành động, vận dụng “chủ nghĩa đại trà”. Ý chí trí tuệ khoanh định không gian kiểm soát được của mỗi hoạt động.

Ý chí xúc cảm gắng chiếm mọi thời gian cho hành động, với tinh thần “một lần, và cho mãi mãi”. Ý chí trí tuệ là ý chí lộ trình, chia định thời gian hoạt động thành những thời hạn, để sau mỗi thời hạn đó có thể quyết định được là sẽ tiếp tục hoạt động này, hay cải cách hoạt động này, hoặc từ bỏ nó, hoặc chuyển đổi sang hoạt động khác; ý chí trí tuệ phải phối hợp được các hoạt động của hệ thống tổng thể đa tiết điệu trong thời gian.

Ý chí xúc cảm gắng nhắm tập trung hết vào “một”, một hoạt động tâm điểm, duy nhất. Ý chí trí tuệ nhắm đặt ưu tiên hệ thống tổng thể lên trên mỗi hoạt động riêng của nó, dẫu như có một hoạt động riêng nhất định nào đó được ưu tiên chính yếu trong một thời điểm.

Ý chí xúc cảm gắng chủ trương “cứ thế mà làm, “chống nghĩ lại”. Ý chí trí tuệ phân tách bản thân hoạt động “hiện thực” ra khỏi lãnh vực suy nghiệm, để hướng tới khả năng kiểm tra trở lại được, không chỉ hoạt động “hiện thực” ấy, mà cả chính chủ trương tinh thần đang dẫn dắt nó.

Ý chí xúc cảm đề cao tận dụng mọi tập tục để cuốn hút được mọi sức mạnh của xúc cảm. Ý chí trí tuệ khai phóng các phương thức mới, và lựa chọn lại, làm mới lại, thích ứng lại các yếu tố cổ truyền hữu dụng trước khi cho phép chúng được gia nhập, được tích hợp trở lại vào các chương trình kiến thiết mới.

Ý chí xúc cảm hướng tới linh thiêng hóa, trường cửu hóa các quyết định. Ý chí trí tuệ hướng tới giải thiêng, thế tục hóa, kiểm kê, kiểm tra, phán xét, phê phán trở lại các quyết định.

Ý chí xúc cảm hướng đến say số lượng, mê ôm đồm, gộp gạp mọi yếu tố “có ích” dù nhỏ bé hay nhất thời, bất kể mâu thuẫn hỗn tạp mà chúng có thể đang và sẽ gây nên. Ý chí trí tuệ hướng tới tính hợp lý, chắt lọc, hòa hợp, ăn ý.

Ý chí xúc cảm tuy có thể bền bỉ, nhưng mục tiêu lại thường hướng tới tính cấp cứu, kết quả tức thì, đặc tính cổ võ. Ý chí trí tuệ hướng tới tính kiến thiết, tính trừu tượng, tính nền tảng, tính dài lâu.

Ý chí xúc cảm có thể lấy mục tiêu hoạt động “đi đến tự do”, nhưng cách thức hoạt động không được tham vấn bởi tự do, rốt cuộc mục tiêu hoạt động “đi đến tự do” thường không đạt đến. Ý chí trí tuệ lấy tự do làm bản thể cho chính ngay sự tồn tại và vận hành của nó.

Ý chí xúc cảm không có ý niệm về quyền-hạn, quyền lực chế ngự được. Ý chí trí tuệ lấy quyền-hạn, quyền lực chế ngự được, làm điều kiện cho sự chính đáng của sự tồn tại của nó.

Ý chí xúc cảm không cần có quy chế tài phán độc lập. Ý chí trí tuệ coi qui chế tài phán độc lập là cái đảm bảo cho tính điều tiết được của sự tồn tại của nó.

Ý chí xúc cảm một khi được kéo dài thường trở thành xu hướng độc đoán, cấm đoán các xu hướng khác, để dành ưu tiên tối đa cho hoạt động được nó bảo lãnh. Ý chí xúc cảm có xu thế bảo vệ quá mức hoạt động được bảo chế của mình. Ý chí trí tuệ coi việc hài hòa các xu hướng của toàn bộ hệ thống của các hoạt động là bắt buộc cho sự bền vững của hệ thống.

Ý chí tổng thể, hay “ý chí”

Xúc cảm và lý trí là hai lĩnh vực luôn giằng xé nhau. Cuối cùng thì chúng ta sẽ có một thứ ý chí tổng thể, ý chí này phải tìm cách đứng chân như thế nào trên cùng cả hai miền đất đang luôn luôn trôi dịch này. Và cách thức mà ý chí tổng thể xử lý mối tương quan giữa xúc cảm và trí tuệ sẽ làm nên câu chuyện đạo hạnh.

Trước các nỗi khổ đau của con người, cá nhân và cộng đồng, ý chí không thể chỉ dừng ở phân tích các nỗi khổ đau ấy, mà phải “chịu trách nhiệm” về chúng, mà kẻ đứng ra đòi hỏi điều đó chính là “đạo hạnh”. Sự thờ ơ có thể là sự lạc đường, sự mất phương hướng, sự dỗi dàng lâm thời của ý chí, nhưng không phải là người bạn đường dài của ý chí. Nhiều thành phần của đạo hạnh có thể sẽ và phải được cộng đồng tham chiếu, chuyển dần thành “pháp quyền”, qua một quá trình xây dựng lâu dài, bền bỉ, cập nhật, rà soát đi rà soát lại, thành tính bắt buộc (“pháp”), nhưng vì sự tự do và ích lợi của mỗi người và của cộng đồng trên tổng thể (“quyền”). Ví dụ như “trong giao thông mỗi ai thấy người gặp nạn một mình, thì phải tham gia cứu trợ” vốn từ một yêu cầu đạo hạnh đã trở thành một điều luật giao thông ở nhiều nước.

Nhưng dù vấn víu phức tạp đến như thế nào, ý chí chỉ là ý chí trọn vẹn một khi nó được nảy nở trên nền của tự do. Tự do, là tự do lựa chọn: ngay cả khi trước mặt tự do chỉ có một thứ để lựa chọn, nó cũng bảo dưỡng quyền chấp nhận điều đó, hay khước từ điều đó. Tuy nhiên ý chí tự do phải lo trả món nợ với pháp quyền, mang tính bắt buộc, cùng đức hạnh, mang tính khuyến nghị.

Ý chí cộng đồng

Ý chí cộng đồng hình thành từ các ý chí xúc cảm, trí tuệ, tự do, đạo hạnh (bao gồm pháp quyền) của công dân, từ “ý chí công dân”, chứ không phải từ “lòng dạ thần dân”. Ý chí cộng đồng phải thể hiện được lợi ích của cộng đồng và những thành viên của nó.

Ông Rousseau thật vô cùng xuất chúng, khi làm sáng tỏ ra được rằng lợi ích của cộng đồng không phải là lợi ích của số đông trong cộng đồng. Đúng thế. Bởi nếu lợi ích của nhóm đa số quyết định lợi ích của cộng đồng, thì nhóm đa số có cùng lợi ích sẽ độc tài chuyên chế trên các nhóm khác, hay trên các cá thể khác. Chưa hết. Và các công cuộc liên kết các nhóm để có nhóm đa số tạm thời nhằm trấn áp thiểu số còn lại trong mọi lĩnh vực xã hội sẽ làm nên những cuộc bạo động nhốn nháo không ngừng không nghỉ trong xã hội. Và tất nhiên, lợi ích của cộng đồng càng không phải là lợi ích của số ít trong cộng đồng.

Ông Rousseau thật vô cùng xuất chúng, khi làm sáng tỏ ra được rằng lợi ích của cộng đồng không phải là lợi ích của số đông trong cộng đồng.
Lợi ích của cộng đồng là tổng thể của những lợi ích khác nhau, những lợi ích xung khắc nhau, của các cá nhân, của các nhóm cộng đồng. Và chính do đó mà phải xây dựng kĩ lưỡng từ đó lên được một hợp đồng xã hội thỏa đáng, một cách năng động và linh hoạt theo thời gian, để một cộng đồng có thể sống ổn thỏa và hạnh phúc với nhau dài lâu.

Ý chí cộng đồng ấy thông qua nền thương nghị cộng đồng được hóa thân dần vào nền pháp quyền, mang tính bắt buộc, cùng nền đức hạnh mang tính khuyến nghị.

Ví dụ giản dị, mỗi nhóm người dân tộc trên đất nước Việt đều phải thể hiện được lợi ích của mình về mọi mặt, văn hóa, xã hội, kinh tế, chính trị, trong hợp đồng xã hội, dẫu rằng người Kinh (Việt) là nhóm người đa số.

Ý chí cộng đồng hình thành từ các ý chí xúc cảm, trí tuệ, tự do, đạo hạnh (bao gồm pháp quyền) của công dân, từ “ý chí công dân”, chứ không phải từ “lòng dạ thần dân”. Ý chí cộng đồng phải thể hiện được lợi ích của cộng đồng và những thành viên của nó.
Ví dụ giản dị, mỗi con người trên đất nước Việt đều phải thể hiện được lợi ích của mình về mọi mặt, văn hóa, xã hội, kinh tế, chính trị, trong hợp đồng xã hội, dẫu như “những người khác là đa số”. Trừu tượng ư ? Không. Chẳng hạn những người bẩm sinh đồng tính phải được tôn trọng và lợi ích của họ phải được tính đến trong hợp đồng xã hội. Cũng như vậy với những người thuận tay trái, những người tàn tật, những người suy nghĩ không giống số đông, vân vân.

 Ví dụ giản dị, nếu tất cả các nghị sĩ đều ủng hộ một điều luật, trừ một vị nghị sĩ. Ý kiến của vị nghị sĩ “lạc lõng” đó phải được tôn trọng, phải được lưu bút. Và bản thân con người nghị sĩ đó, phải được tôn trọng.

---

Và một ví dụ giản dị sau cùng.

Rằng nếu có một ai đó mong mỏi Tết này được đốt một bánh pháo vào Giao Thừa, thì ý kiến của họ cần được xã hội ghi nhận, không mặc cảm. Để rồi một ngày kia, biết đâu ý chí của xã hội sẽ tìm ra được một giải pháp thỏa mãn được mong mỏi này?

Có thể bắt đầu phác thảo ý chí đó bằng việc hướng đến xây dựng được một nền giáo dục, trong nhà, ngoài phố, và ở trường học, trong đó mỗi con người không còn chí chết chạy đuổi theo “chủ nghĩa lạm dụng”, để tự mình khỏi trở thành “những người hùng của chủ nghĩa lạm dụng”, để rồi họ lớn lên vui vẻ tự do, và sẽ chỉ tự do lập chí đốt cho mình đúng một bánh pháo vào thời khắc Giao Thừa?

Nguồn: tapchitiasang

Thứ Bảy, 2 tháng 2, 2013

Martin Heidegger và siêu hình học

Hà Huy Tuấn (soạn thảo)

Martin Heidegger (1889-1976) là triết gia có ảnh hưởng nhất và cũng bị tranh cãi nhiều nhất ở phương Tây nửa sau thế kỷ XX. Xuất thân trong một gia đình thợ thủ công ở vùng Rừng Đen nước Đức, ông suốt đời gắn bó với quê hương, sống giản dị, xa lánh nền văn minh hiện đại. Giống như các nhà sáng lập chủ nghĩa hiện sinh khác, thân phận con người với nỗi cô đơn, man mác, ưu tư, lo âu và sợ hãi luôn đi về trong sự suy tư của M.Heidegger. Ông cho ra đời một loạt tác phẩm gây tiếng vang lớn, tạo nên bước ngoặt trong tư duy phương Tây, khác lạ với tất cả những gì cổ điển trước kia. Sau tác phẩm có tính đột phá Tồn tại và Thời gian (1923) xuất bản năm 1927 trong Niên giám hiện tượng học do Edmund Husserl chủ biên, các công trình khác in dấu đậm nét lên bức tranh triết học đương thời như: Siêu hình học là gì? (1929), Về bản chất của chân lý (1930), Giải minh thơ Höderlin (1944), Thư về nhân bản chủ nghĩa (1947), Đường rừng (1950), Triết lý là gì? (1956), Đồng nhất và Dị biệt (1957), Trên đường đến với ngôn ngữ (1959), Nietzsche (1961), Hiện tượng học và thần học (1970). Trong đó, phần Nhập đề của Siêu hình học là gì? được coi là chìa khoá để mở cánh cửa tư duy của triết học M.Heidegger.

M.Heidegger khi tra vấn siêu hình học là gì đã bắt đầu từ quan niệm của R.Descartes để phê phán. Theo R.Descartes, nếu toàn bộ Triết học là một cái cây thì Siêu hình học là rễ, Vật lý học là thân, còn cành nhánh là tất cả các khoa học khác. Quan niệm này chính xác coi triết học là khoa học của mọi khoa học, các tri thức khoa học chẳng qua chỉ là bộ phận của triết học, nhằm là sáng rõ cho các nguyên lý triết học. Quan niệm của René Descartes đã mở đường cho chủ nghĩa duy lý, duy khoa học phát triển từ trào lưu Khai sáng trở đi, đánh đổ mọi tư duy tôn giáo và thần học, chủ nghĩa duy linh trước đó của thời Trung cổ. R.Descartes là một trong những người có công đặt nền móng cho chủ nghĩa duy lý và khoa học tự nhiên phát triển khi lấy "Lý tính" và "Tri thức" làm nền tảng để xây dựng lâu đài triết học. Dường như điều này khó bị đánh đổ cho đến khi lý tính và tri thức khoa học cũng bất lực không lý giải được thân phận con người, của tồn tại người - vấn đề dấy lên giữa hai cuộc Đại chiến thế giới đầu thế kỷ XX. Trái lại, M.Heidegger cho rằng, và đúng là như thế, mọi siêu hình học từ Anaximander đến F.Nietzsche đều nhầm lẫn không tra vấn thực chất của siêu hình học; đáng lẽ phải đi tìm câu trả lời cho câu hỏi "Tồn tại (*) là gì?" thì tất cả họ lại suy tư thành "Cái tồn tại là gì?" hay "Cái gì tồn tại?". Và vì thế đã hình thành nên hai câu trả lời đều phiến diện như nhau: một là, tồn tại là ý thức (ý niệm); hai là, tồn tại là vật chất (thực tại khách quan). Thực ra, tồn tại là ý thức như thế nào về đối tượng hay đối tượng được ý thức như thế nào. Do đó, việc xem xét chỉ mình ý thức là vấn đề của khoa tâm lý học và ngôn ngữ học, việc xem xét chỉ mình vật chất là vấn đề của các ngành khoa học tự nhiên. Triết học cổ điển muốn thâu tóm mọi tri thức là một việc làm rỗi hơi hay chí ít cũng là không tưởng.
Triết học của M.Heidegger là sự thiết lập lại một siêu hình học mới, bản thể luận cơ bản chống lại mọi bản thể luận cổ điển đã tồn tại từ xưa đến nay. Suy tư về sự suy tư của con người là một hướng suy tư tiếp cận được với hữu thể. ý tưởng này bắt nguồn từ Immanuel Kant và được E.Husserl phát triển theo nguyên tắc cấm bản thể hoá cái tiên nghiệm. Cố gắng của I.Kant là muốn chấm dứt sự tranh cãi bất tận trong đấu trường siêu hình học, vượt lên chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa kinh nghiệm đương thời bằng cách dung hoà chúng. Cố gắng ấy chỉ đem lại sự quan tâm của giới triết học đến chủ thể tiên nghiệm. Còn E.Husserl chỉ tiếp tục phân tích ý thức bằng phương pháp hiện tượng học để tìm ra tính ý hướng của nó. Song chừng ấy chưa làm hài lòng M.Heidegger. M.Heidegger đã lập trình lại triết học bằng một ngôn ngữ mới, điều đó cộng với suy tư hoàn toàn phi cổ điển của ông đã làm cho triết học M.Heidegger trở nên khó hiểu đối với nhiều người. Nhưng chính từ giác độ đó, cũng có người cho rằng M.Heidegger là triết gia duy nhất, đúng theo nghĩa chặt chẽ của từ này, kể từ khi loài người xuất hiện cho đến nay.

Phê phán tất cả suy lý triết học trước đó về hữu thể, như việc gán hữu thể là tinh thần trong chủ nghĩa duy tâm, là vật chất trong chủ nghĩa duy vật, là cái kinh nghiệm (expérience) trong chủ nghĩa kinh nghiệm, là cái tiên nghiệm (transcendantal) trong triết học I.Kant, là hiện tượng có ý hướng trong hiện tượng học E.Husserl, là ý chí (volonté) trong triết học phi lý của A.Schopenhauer, là sự hồi quy vĩnh cửu (retour de l'éternel) trong triết học F.Nietzsche, là năng lượng trong chủ nghĩa duy năng, là ngôn ngữ trong triết học phân tích và chú giải học,.v.v…và đòi đạp đổ tất cả bản thể luận cổ điển, M.Heidegger cho rằng hữu thể là ý nghĩa của mọi đối tượng nói trên khi con người suy tư về chúng. Chúng ta nghĩ về một sự vật có nghĩa là chúng ta đang truy tìm sự tồn tại của nó mà nó được ném vào, chứ không phải là tìm hiểu bản thân sự vật ấy; đó là con đường chân chính của triết học không lẫn với con đường của các khoa học đang đi. Vì vậy, muốn suy tư về hữu thể trước hết phải đi từ hữu thể người, đó là chìa khoá duy nhất.

"Yếu tính của hữu thể nằm trong sự hiện hữu của nó" - đây là nội dung suy tư trong suốt khảo luận Tồn tại và Thời gian. Vậy, hiện hữu có nghĩa là gì? Hiện hữu là cách mà hữu thể khai triển ra ngoài, là khoảnh khắc bộc lộ của hữu thể trong thời tính. Và như thế nó liên quan chặt chẽ với hữu thể người. Trong tiếng Đức, DaseinExistenz là đồng nghĩa, đều chỉ tính có thực của thực thể từ Thượng đế cho đến hạt cát. Tuy nhiên, M.Heidegger muốn sử dụng độc quyền từ Dasein để chỉ hiện hữu người. Con người chỉ kinh nghiệm được khi hữu thể hiện hữu, và cũng chính khi đó con người thể hiện là một hiện hữu; ngoài ra, hữu thể mờ mịt trước kinh nghiệm của con người. Do đó, con người luôn ưu tư về sự hiện hữu của mình, về sự tồn-tại-trong-thế-giới của mình mà con người bị ném vào. Tồn tại có nghĩa là gì, mặc dù Tồn tại thì bất khả định nghĩa? Trả lời câu hỏi đó và cứ tra vấn như thế mãi trong suốt sự diễn tiến của nó - đấy là vấn đề mà siêu hình học quan tâm, vấn đề bản thể luận cơ bản, là sự trở về nền tảng của siêu hình học.

Vấn đề hữu thể được M.Heidegger trình bày không phải như cách I. Kant trình bày vật tồn tại tự thân (das Ding an sich). Bởi vì làm theo cách của I.Kant là sự né tránh không đi thẳng vào câu hỏi về hữu thể. Đó là lý do người ta cảm nhận được ở triết học I.Kant tính chất nhị nguyên với trọn vẹn sự bối rối của thời cận đại. Mặc dù rất ngưỡng mộ hiện tượng học của E.Husserl và kế thừa trực tiếp từ nó, M.Heidegger cũng không đồng ý với quan niệm về tính chủ quan tiên nghiệm, coi đó là sự giản lược tất cả những gì độc đáo và phong phú của tồn tại người. Con người hiện hữu khác với thực thể người tồn tại, nếu không nó đã chẳng ưu tư về sự hiện hữu của mình. Với tính cách thực thể, con người chỉ giống như sỏi đá, sinh vật trong tự nhiên. Với tính cách hữu thể, con người sống động và bí ẩn, độc nhất và không thể biết trước. Đây là bước chuyển từ hiện tượng học và khoa học sang chủ nghĩa hiện sinh khi xem xét tồn tại người. Từ nay, con người được tìm thấy trong một chiều kích mới, trong sự phóng chiếu bản chất của mình chứ không phải chỉ là đối tượng nghiên cứu đơn thuần của các khoa học. Nói cách khác, M.Heidegger vạch ra đối tượng của siêu hình học là lý giải ý nghĩa của mọi hữu thể từ hữu thể người. Giải minh học và cách tiếp cận hiện sinh là đóng góp lớn của M.Heidegger cho triết học hiện đại. Truy tìm ý nghĩa của hữu thể là công việc không dễ dàng và không thể dùng các phương pháp của khoa học mà thành công. Bên cạnh sự giải phẫu ý thức bằng phương pháp hiện tượng học, M.Heidegger còn thấy cần thiết phải giải minh các trạng huống sinh tồn của con người như sự lo âu, sợ hãi, sự day dứt, .v.v… Và ông coi đó mới là những yếu tố làm nên bản chất người. Bản chất người bộc lộ rõ nhất khi đối diện với cái chết, khi đó con người hiện hữu với toàn bộ dáng vẻ của nó không giấu giếm. Trong cuộc sống hàng ngày, con người cố che đậy hiện hữu của mình nhưng trước tình huống hiện sinh, nó buộc phải bộc lộ. Từ đó, Lo Âu, Sợ Hãi, Cái Chết, … trở thành phạm trù của chủ nghĩa hiện sinh, tạo ra ngôn ngữ mới cho triết học gần gũi với đời thường chứ không còn dáng vẻ hàn lâm chết cứng như trước kia. Cần thấy rằng, để thoát khỏi tầm ảnh hưởng của hiện tượng học, M.Heidegger đã hướng đến những suy niệm của Soren Kierkegaard về thân phận con người. Tác phẩm Tồn tại và Thời gian dang dở như chính học thuyết mà nó trình bày, bí ẩn như chính vấn đề nó đề cập. Những hứa hẹn về tập hai của cuốn sách này đã không được tác giả của nó thực hiện nhưng điều đó không ngăn cản nó trở thành tác phẩm triết học đáng đọc nhất nửa cuối thế kỷ XX.

Chú thích
(*) Trong tiếng Việt, từ Sein có thể được dịch là Tồn tại hoặc Hữu thể. Tồn tại thì quen hơn còn Hữu thể thì hợp lý hơn, vì nó cùng một tông với Hư vô (một khái niệm quan trọng khác của triết học từ sau M.Heidegger trở đi) và nó tránh được những nhầm lẫn mà Tồn tại có khả năng mắc phải.

Nguồn: thuvienkhoahoc

Về những nhà học giả thông thái (trích đăng) - Nietzsche

Lúc ta đang nằm ngủ, thì có một con cừu đến gặm vòng hoa trường xuân trên đầu ta; trong khi gặm ăn, cừu nọ be be: "Zarathustra không còn là một học giả thông thái nữa".

[....] Bởi vì, đây là sự thật: ta đã rời khỏi căn nhà những học giả và đã đóng ập cửa lại sau lưng ta.

Linh hồn khao khát của ta đã ngồi chung bàn với bọn chúng khá lâu, ta không như bọn chúng, được huấn luyện để theo đuổi tri thức như để đập vỡ những hạt hồ đào.

Ta yêu mến tự do và khí trời trên mặt đất tươi mát phiêu diêu; ta thích được nằm ngủ yên trên những tấm da bò còn hơn là những trên những lễ mạo tôn vinh cùng những phẩm giá đáng tôn kính của chúng. Ta quá nồng nà và bị thiêu cháy bóng vì những tư tưởng của chính mình: chúng thường làm ta hụt mất cả hơi thở

[...] Khi chúng ta tưởng mình là kẻ Trí Huệ Hiền Minh thì những lời châm chọc ti tiện, những chân lý bé nhỏ của chúng làm ta rùng mình ớn lạnh: Trí Huệ Hiền Minh của bọn chúng thường mang mùi vị của đầm lầy hôi thối! Và thực vậy, ta đã từng nghe tiếng ếch nhái kêu gào ỏm tỏi trong những lời lẽ bọn chúng!

Bọn chúng đúng là những chuyển động tuyệt hảo của quả lắc; miễn là người ta để ý lên giây thiều bọn chúng cho chắc! Lúc bấy giờ chúng sẽ chỉ không nhầm lẫn và đồng thời phát ra một tiếng tích tắc đầy khiêm tốn.

Chúng làm việc, giống như những máy xay và những chày giã: chỉ cần vứt hạt giống lúa mì vào đó! Chúng sẽ biết làm thế nào để nghiền nát và biến nó thành một thứ bụi trắng.

NHững ngón tay đó canh chừng và nghị kỵ đối với những ngón tay xảo diệu nhất. Sẵn óc đặt bày ra sự tinh quái nhỏ nhen, bọn chúng rình dò những kẻ mang kiến thức khập khiễng, bọn chúng rình dò như những con nhện.

Ta đã luôn nhìn thấy bọn chúng cẩn trọng chế hóa thuốc độc của mình; và bao giờ bọn chúng cũng mang găng tay bằng thủy tinh để che giấu các ngón tay khi chế hóa.

Bọn chúng cũng biết chơi với những con xúc xắc gian lận; ta đã nhìn thấy bọn chúng nồng nhiệt chơi đùa đến độ đổ cả mồ hôi.

Chúng ta xa lạ lẫn nhau và những đức hạnh của chúng còn làm ta kinh tởm hơn là những sự giả ngụy cũng những con xúc xắc gian lận của chúng

[....] Nhưng, mặc tất cả, ta vẫn bước đi trên đầu bọn chúng với những tư tưởng của ta.

Bởi vì loài người chẳng bao giờ bình đẳng với nhau; sự công chính dạy như thế. Và điều ta ước muốn, bọn chúng không có quyền ước muốn.

Zarathustra đã nói như thế.

Thứ Sáu, 1 tháng 2, 2013

Ai ném đá vào Hội nhà văn....?

Ai ném đá vào Hội nhà văn hay chính hội nhà văn đã ném đá vào nền văn học Việt Nam, ném đá vào lịch sử Việt Nam và bạn đọc?

Trần Mạnh Hảo

Trên trang mạng của nhà văn Phạm Viết Đào http://phamvietdao3.blogspot.com  ngày 29-01-2013, có in bài: “CHỦ TỊCH HỮU THỈNH: HỘI NHÀ VĂN KHÔNG PHẢI LÀ ” VẬT TẾ THẦN ” ĐỂ CHO AI ĐÓ… “NÉM ĐÁ”…” (http://phamvietdao3.blogspot.com/search?updated max=2013-01-30T08:13:00%2B07:00)

Trong lễ trao giải thưởng và kết nạp hội viên mới, ngày 29-01-2013, nhà thơ Hữu Thỉnh – chủ tịch Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam kiêm chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam đã phát biểu (web Phạm Viết Đào đưa lên một video clip bài nói vo của ông HT) khẳng định lập trường chính trị kiên định của Hội rằng văn học là để phục vụ nhiệm vụ chính trị, tức phục vụ đảng, nhất là trong tình hình nhậy cảm này, ca ngợi các tác giả đoạt giải lên mây.

Khi ông Hữu Thỉnh nói thì dưới hội trường (toàn là các nhà văn ưu tú trong ban chấp hành, trong các hội đồng chuyên môn, các nhà văn được giải thưởng và các nhà văn mới được kết nạp cùng các nhà văn cánh hẩu của ban thường vụ hội…) lại nói chuyện còn hơn vỡ chợ. Nghĩa là ông Hữu Thỉnh nói mà không ai thèm nghe, cứ nói chuyện tự nhiên, cười đùa, gọi điện thoại ầm ĩ y như pháo nổ.

Xem ra văn hóa ứng xử của các nhà văn quốc doanh thật là thiếu văn hóa.

Chúng tôi chỉ ghi lại tinh thần bài nói của ông Thỉnh, chứ không chép lại từng câu nói chính xác của ông như thư ký chép tốc ký bài nói của thủ trưởng.

Ông Hữu Thỉnh đấm ngực ăn năn hối lỗi trước đảng: Hội ta phải nói cho đúng là trí tuệ còn yếu, chưa nâng tầm trí tuệ lên kịp với đảng với dân. Tuy trí tuệ ta còn kém nhưng ta kết nạp 25 hội viên mới khóa này tuyệt vời trên cả tuyệt vời. Rằng giải thưởng văn học năm nay trao đúng người đúng tác phẩm mà chất lượng nghệ thuật cũng rất hay, tuyệt hay. Không như năm ngoái, giải thơ chỉ có cách tân mà không có dân tộc. (Nói như thế này, ông Hữu Thỉnh đã tự phủ nhận giải thơ năm ngoái của Hội rất kém về nghệ thuật, tức là thơ dở mà đưa ra tặng giải thơ hay!).

Ông Thỉnh tiếp tục thổi: giải thưởng thơ năm nay cũng trao cho bốn tập thơ như năm ngoái nhưng năm nay vừa cách tân vừa dân tộc, rất hay, ví như tập của anh Thanh Thảo là tuyệt hay, nhuần nhuyễn, sâu sắc, rất mới, rất tuyệt…Ba tập thơ còn lại cũng hay ngang với thơ Thanh Thảo…

Ông Hữu Thỉnh (HT) đanh thép lên án: tôi cực lực lên án một bài báo vu cáo nói thơ anh Thanh Thảo là thơ mậu dịch, thơ quốc doanh. Nói như thế là phủ nhận sạch trơn, là xúc phạm, thóa mạ tài năng đáng kính, là vô văn hóa. Các đồng chí nên nhớ rằng nếu không có mậu dịch quốc doanh, không có hợp tác xã quốc doanh ta không đánh thắng được Mỹ đâu.

Ông HT tiếp: chỉ sau 05 ngày công bố giải thưởng, Hội đã nghe tiếng chửi đầy tai. Một số cơ quan báo chí cường điệu hóa vấn đề giải thưởng. Có báo đưa lên trang nhất bài nói xấu giải thưởng hội nhà văn. Chúng tôi sẽ làm việc với các cơ quan chủ quản báo chí về chuyện này. Rằng Hội không bó tay ngồi yên để người ta đánh hội đâu. Hội ta không cho phép bất cứ ai, bất cứ báo nào đưa hội ra chửi. Chúng ta quyết không cho phép bất cứ ai, bất cứ báo nào biến Hội nhà văn sang trọng đang yêu đảng yêu dân này làm vật tế thần để báo chí chửi bới. Rằng một số hội viên hay chửi hội nếu muốn xin ra khỏi hội thì ban chấp hành sẽ ok liền…

Phải nói ông HT hơi bị nóng tính nên thiếu khôn ngoan, phát biểu nhiều điều quấy quá. Hội nhà văn có nhiều cơ quan báo chí sao không đáp trả những ai, những báo dám nói xấu hội? Việc gì mà ông HT lại chửi những người đã góp ý, đã dám viết thư xin không nhận bằng khen, xin rút ra khỏi hội đồng văn xuôi…bằng ngôn ngữ hơi bị mất gà như thế? Ông dùng biện pháp công an để đe dọa những ai, những báo nào dám phê bình hội, phê bình giải thưởng của hội rằng : tôi sẽ làm việc với ban chủ quản các báo chí ấy. Thật là ghê gớm thay! Rằng như thế, ông HT đã kéo Hội về thời công an trị trước đổi mới…

Chẳng có ai dám ném đá vào Hội, hay dám vu khống nói xấu hội như ông HT lên án. Chỉ có ông HT và ban lãnh đạo hội ném đá vào nền văn học, ném đá vào lịch sử dân tộc, ném đá lên khát vọng vào hội của các nhà văn trẻ muốn gia nhập hội, ném đá vào tình yêu văn học của bạn đọc cả nước.

Chúng tôi xin chứng minh :

1-     Ông HT và ban lãnh đạo hội suốt ba nhiệm kỳ ông Thỉnh làm chủ tịch hội đã ném đá vào nền văn học Việt Nam.

Thời các ông : Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Khoa Điềm, Vũ Tú Nam làm tổng thư ký hội nhà văn VN (ức chủ tịch hội), trong “Bản điều lệ hội” đều ghi câu đầu rằng: HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM LÀ TỔ CHỨC XÃ HỘI NGHỀ NGHIỆP…

Khi ông HT làm chủ tịch hội, ông đã nhét từ CHÍNH TRỊ vào trước từ “XÃ HỘI NGHỀ NGHIỆP”của bản điều lệ cũ, thành ra bản điều lệ mới như sau :

” Hội Nhà văn Việt Nam (gọi tắt là Hội) là tổ chức chính trị-xã hội- nghề nghiệp tự nguyện của các nhà văn Việt Nam (bao gồm những người sáng tác : thơ, văn xuôi, kịch bản, lý luận phê bình, dịch thuật văn học) lấy hoạt động văn học là nghề nghiệp của mình.”

http://yume.vn/tmtien218/article/dieu-le-hoi-nha-van-viet-nam.35CF6020.html

Như vậy, ông Hữu Thỉnh đã làm cuộc đánh tráo lớn, biến một tổ chức xã hội nghề nghiệp thành một tổ chức chính trị- xã hội-nghề nghiệp, biến tính mục đích văn học của hội thành phương tiện và ngược lại.

Ông HT làm điều sai trái tày trời này cốt nịnh đảng, cốt đưa văn học trở về thời tiền đổi mới, rằng VĂN HỌC PHỤC VỤ CHÍNH TRỊ, văn học là đày tớ con sen của chính trị.

Với hành động này, ông HT đã chống lại mỹ học Mác-xít, hay chống lại chính nguyên lý căn bản của chủ nghĩa Marx: rằng, văn học (văn nghệ) và chính trị là hai phạm trù riêng biệt, độc lập với nhau, không phục vụ nhau, không phụ thuộc nhau trên thượng tầng kiến trúc xã hội.

Bắt văn học phục vụ chính trị là sai hoàn toàn quan niệm Mác-xít à thưa ông HT hàm bộ trưởng chưa hề qua một lớp sơ cấp về chủ nghĩa Marx.

Ai cũng biết CHÍNH TRỊ LÀ THỦ ĐOẠN, còn VĂN HỌC LÀ SỰ CHÂN THÀNH, LÀ XÚC CẢM, TÌNH CẢM CHÂN THẬT CỦA CON TÌM…

Khẳng định trong điều lệ Hội nhà văn VN LÀ MỘT TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ – XÃ HỘI- NGHỀ NGHIỆP có khác nào nói Hội nhà văn VN là một TỔ CHỨC THỦ ĐOẠN ….

Ấy chính là việc ông HT đã ném hòn đá quá lớn vào văn học VN, vào chính văn hóa VN vậy !

2-     Ông HT và ban lãnh đạo hội đã ném đá vào lịch sử Việt Nam, ném đá vào cuộc khởi nghĩa Làm Sơn, ném đá vào vị vua đã thống nhất đất nước là vua Gia Long khi trao giải thưởng cho tiểu thuyết “Hội thề” của Nguyễn Quang Thân và truyện ngắn “ Dị hương” của Sương Nguyệt Minh.

“Hội thề” của NguyễnQuang Thân chửi rủa Lê Lợi, Nguyễn Trãi và các tướng sĩ Lam Sơn là giặc, là bọn cướp của, hãm hiếp dân chúng. “Hội thề” ca ngợi đám tướng lĩnh giặc Thanh xâm lược Việt Nam là những người có văn hóa, sang trọng, lịch lãm, yêu dân như con, sang Giao Chỉ cứu giúp dân Việt , khai hóa văn minh cho dân Việt. Chính ra “ Hội thề” phải được bọn bá quyền Bắc Kinh trao giải thưởng, sao chúng lại mượn tay Hội nhà văn VN để làm việc này ?

Như vậy, tội ném đá vào lịch sử của ông HT và ban lãnh đạo Hội nhà văn VN rất lớn, có thể “ chặt hết trúc Lam Sơn cũng không ghi chép được, lấy hết nước biển đông cũng không rửa sạch được” theo như người xưa nói.

3-     Ông HT đã ném đá vào nền văn học, ném đá vào tình yêu văn học của dân Việt Nam bằng cách giới thiệu ông Hoàng Quang Thuận và thơ ông bịp thần bịp thánh này, một kẻ chưa biết làm thơ sản xuất ra nhiều tập thơ dở nhất nước MANG THƠ DỰ GIẢI NOBEL. Như vậy, theo ông HT, thơ Hoàng Quang Thuận xứng đáng được giải Nobel, là thơ hay nhất nước. Đó chính là việc ném hòn đá rất to vào văn học Việt Nam, có tội với Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, với Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc tử, Chế Lan Viên…của ông HT.

4-     Việc ông HT kết nạp “nhà thơ Hùng Anh” (tức Hùng Tấn, giám đốc công ty Dược Cà Mau) – một kẻ làm thơ con cóc nhưng lắm tiền do tham nhũng vào Hội là ông đã ném đá lên khát vọng vào hội của các nhà văn chưa hội viên. (Hùng Tấn,Hùng Anh kết nạp vào Hội do tiền mới được hai tháng đã bị bắt vì tham nhũng hàng trăm tỷ đồng. Hiện vẫn còn trong tù). Việc ông HT và ban lãnh đạo Hội kết nạp những người nhiều tiền mà thơ dở nhất nước như Hùng Anh, như Hoàng Quang Thuận… vào Hội nhà văn VN vừa qua cũng chính là hành vi ném đá vào nền văn học vậy.

5-     Việc ông HT và ban lãnh đạo Hội nhà văn VN cho phép “Tạp chí nhà văn” hội thảo thơ tầm bậy lừa thần thánh, thơ ăn cắp, thơ lừa mọi người của Hoàng Quang Thuận âu cũng là việc các vị ném đá vào nền văn học và vào tình yêu văn học của mọi người .

6-     Việt ông HT và Ban lãnh đạo Hội vừa qua xét trao giải thưởng văn học giải Hồ Chí Minh và giải thưởng văn học nhà nước cho hầu hết các tác phẩm kém chất lượng nghệ thuật. Ví như giải thưởng văn học Hồ Chí Minh trao cho các ông Hữu Thỉnh, Hà Minh Đức, Lê Văn Thảo, Hồ Phương, Ma Văn Kháng thì chỉ nhà văn Ma Văn Kháng xứng đáng nhận giải này; các vị kia đều có tác phẩm trung bình hoặc dở. Ngay cả giải thưởng văn học hàng năm mấy năm nay ông HT và ban lãnh đạo Hội cũng chỉ chọn các tác phẩm trung bình hoặc dở để trao giải thưởng. Việc này làm hỏng thị hiếu văn học lớp trẻ, cũng là một cách ném đá vào nền văn học nước nhà.

Chúng tôi còn có thể kể ra hàng chục vụ ông HT và ban lãnh đạo Hội nhà văn VN ném đá vào lịch sử, ném đá vào nhân dân, ném đá vào văn học…nhưng vì sợ nhàm tai bạn đọc, hẹn một dịp khác.

Cuối cùng, chúng tôi chỉ xin hỏi ông Hữu Thỉnh  và ban lãnh đạo Hội nhà văn Việt Nam rằng :

Đảng đã lấy (lấy trộm vì không xin phép dân) hàng trăm, thậm chí hàng nghìn tỷ đồng  là tiền mồ hội xương máu của nhân dân cho hội nhà văn tiêu xài vung vít, tiêu xài phi lý hàng năm, hàng chục năm nay,  cốt chỉ để các vị làm nghề ném đá bất nhân như vậy hay sao?

Sài Gòn ngày 01-02-2013

Trần Mạnh Hảo

Tác giả gửi cho blog NTT

Nguồn: nguyentuongthuy's blog

Thứ Tư, 30 tháng 1, 2013

VĂN HÓA NƯỚC NHÀ NỢ ĐỌNG – NỢ XẤU MỘT HỘI NHÀ VĂN ?

VĂN HÓA NƯỚC NHÀ NỢ ĐỌNG – NỢ XẤU MỘT HỘI NHÀ VĂN ?
 Nguyễn Hoàng Đức

Thế là Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam, đã xét duyệt rồi trao giải thưởng văn học năm 2012, có cả báo cáo đọc trước toàn thể nữa. Việc của Hội, hội cứ ra quân và làm triệt để tốc chiến tốc thắng. Hội có quyền có chức có con dấu do nhà nước cấp, nên Hội đã làm là phải được, và làm lấy được mới thôi. Dân ngoài Hội chỉ là đám dân đen làm sao ngăn cản bánh xe của quốc doanh mậu dịch?

Việc của hội, hội cứ làm. Việc của người dân thấp cổ bé họng chẳng lẽ lại không dám xem xét bình luận. Tôi có quan hệ khá tốt với một số thành viên trong Hội, nên tôi không có ý định ám thị bôi xấu gì. Vả lại, chữ nghĩa là bút sa gà chết, tôi viết ra rồi công bố lên mạng thì tôi phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước bạn viết, bạn đọc và công luận. Là người có lương tri công dân bình thường thấy sao phải nói vậy, là người cầm bút thì phải biết làm chứng cho thời đại của mình. Vậy tôi xin chỉ  đặt ra những câu hỏi cho Ban chấp hành HNV.

1-    Uy tín quá thấp của Hội Nhà văn?


Trong kinh tế, xí nghiệp nào làm ăn thua lỗ thì phá sản và giải tán. Hội Nhà văn làm ăn trên cánh đồng văn hóa có thua lỗ không? Việc Phạm Ngọc Cảnh Nam là người ngoài hội với tác phẩm Thế kỷ bị mất đã từ chối giải thưởng, và nhà văn Y Ban với Trò chơi hủy diệt cảm xúc, là thành viên trong ban giám khảo cũng từ chối giải thưởng. Đó có phải cả người bên trong sâu nhất và người bên ngoài xa nhất đều biểu thị sự khinh bỉ phẩm chất của ban chấp hành HNV? Liệu có thể tìm ra bằng chứng nào rõ ràng hơn thế không?

2-    Trình độ chính trị quá thấp của Hội Nhà văn ?

Việc một ủy viên ban chấp hành nhanh nhẹn trả lời dư luận rằng HNV không có lợi ích nhóm. Các ông nói thế mà không biết rằng mình đang đi ngược lại sinh hoạt chính trị của quốc gia à? Năm ngoái nghĩa là trong năm diễn ra việc xét duyệt các giải thưởng này, tập thể lãnh đạo cao nhất của nhà nước đã mở đầu và còn đang tiến hành sinh hoạt chính trị, phê bình kiểm điểm mạnh mẽ tệ tham nhũng, cửa quyền , lợi ích nhóm, với việc “có một đồng chí X”, vậy mà các ông chỉ là hội nhỏ bé nằm dưới sự chỉ đạo của cấp trên lại dám nói mình không hề có lợi ích nhóm à? Như vậy là rất kém cỏi về trí khôn, tớ đòi khôn hơn chủ. Tớ đòi mặt sạch để chủ mặt nhem nhuốc sao? Các ông là nhà văn quốc doanh mà không biết chuyện tiếu lâm này sao: đến chơi nhà người ta, ông chủ tự nhiên lại đánh trung tiện, đầy tớ theo sau nhanh nhẹn bảo với mọi người là “của con đấy”. Đấy là bài học nhận cái xấu về mình để chủ sáng giá hơn. Đằng này các ông lại đòi sạch và khôn hơn chủ, ngày xưa thì xử tội gì? Có hay không việc HNV tham nhũng? Chẳng lẽ không? Nhà nước đang có cảnh mua quan bán chức, chẳng nhẽ các ông đủ cao quí để đứng ngoài cuộc? Nếu tham nhũng thì các ông tham nhũng cái gì? Quyền? Danh lợi? Giải thưởng? Có người trong hội còn nói “người ta còn tham nhũng cả gái”, có không?

3-   Trình độ văn học quá thấp:

Nhà thơ Phạm Đương được trao giải với tập thơ “Giờ thứ 25”, đây là tên tập tiểu thuyết viết về Đại chiến thế giới hai của nhà văn Roumanie Constantin Virgil Gheorghiu. Đây là một tác phẩm rất lớn, rất nổi tiếng thế giới, mà đông đảo nhà văn, nhà thơ trong ban giám khảo lại không hề biết, thử hỏi trình độ các ông ở mức nào? Đến khi có người chỉ ra, các ông vẫn tin vào sự lý giải của Phạm Đương rằng : ngẫu nhiên trùng tên. Người ta liệu có thấy một chiếc xe chở tre lá lại rơi ra một con chíp điện tử không? Giờ thứ 25 là biểu tượng cho một thế giới tận thế giống như nó đang trôi vào thảm kịch của Đại chiến thế giới hai với từng đoàn tầu chở người đi vào lò sát sinh. Vậy mà đọc một anh làm thơ tỉnh lẻ dùng một cái tên có hàm lượng cao như vậy, các ông cũng không cảm giác được, thử hỏi các ông trình độ nào? Napoleon nói : “Quá bao dung với tội lỗi là đồng lõa với tội lỗi”.  Việc các ông cố tình cho giải đạo văn tên gọi này, có phải đồng lõa với việc đạo văn không? Hay các ông nghĩ rằng mình cũng thường đạo văn rồi có thêm một người cho có đồng đội?

4-    Tham nhũng và thách thức dư luận sờ sờ:

Việc thành viên trong ban giám khảo cũng dự thi có phải vừa đá bóng vừa thổi còi không? Việc chưa đầy nửa khóa các ông đã gắp giải cho một nửa ủy viên ban chấp hành, như vậy có tham lam không? Có lợi dụng cửa quyền không? Có trắng trợn thách thức dư luận không? Hội Nhà văn là hội chính trị, xã hội, nghề nghiệp. Chính trị cao nhất của nước ta là công tác vận động quần chúng, vậy mà các ông không chịu mở cửa phát hiện ra quần chúng xuất sắc lại đóng cửa gắp giải cho nhau, thì còn làm chính trị cái gì nữa?

5-    Bất công, thiên vị ?
Việc các ông trao giải cho nhà thơ Thanh Thảo với những lời lẽ văn hoa bay bướm, đấy là văn tán. Các ông không tin cứ ra đề đi, tôi tán bất cứ thứ gì trên đời hay hơn và hùng biện hơn 100 lần, nhưng đó không phải là công lý và giá trị . Thanh Thảo văng cả cứt, cả “đếch” vào thơ. Rồi Phạm Đương liên tục văng “đếch” nữa, đó không phải bằng chứng về văn hóa đầu gấu sao? Đã là đầu gấu liệu có gọi là văn hóa?

Nhiều lãnh đạo cao cấp đã từng đánh giá về văn nghệ sĩ, trí thức Việt ( chỉ là nói miệng bên lề, nên tôi không trích cụ thể, tuy vậy hiện thực vẫn còn luôn chứng tỏ ngay trước mắt): học hành không đến đầu đến đũa, không hiểu cái gì cụ thể mạch lạc. Còn đây một bạn viết, để lại tên tuổi địa chỉ đàng hoàng đã viết: “Nhiều người đến hội họp các hội cũng vì tò mò, nhàn rỗi, thích nhìn cảnh “máu me” như một trò tiêu khiển chứ “học thuật văn chương” gì với những cái đầu đất và tay nghề loại hạng bét cả đời chẳng có lấy một tác phẩm cho ra hồn? Nói như mình đây cả đời lao động hết sức hết mình bên giá vẽ còn chả dám nói học thuật, huống chi ba cái thứ “họa mồm” lăng nhăng? Hết nói!!!!! ( Đỗ mạnh Cương, họa sỹ, Hội viên Hội mỹ thuật Việt Nam- Địa chỉ: Đốc Ngữ, Ba Đình, Hà Nội).

Doanh nghiệp kinh doanh lỗ vốn thì phá sản. Hội Nhà văn lẹt đẹt thế sao không phá sản? Xin thưa, chẳng qua là vì các ông vẫn còn được hà hơi tiếp sức bởi vốn nhà nước mà thôi. Còn trong thực tế, với giải thưởng cố đấm ăn xôi này là lá bài các ông đã phơi lộ toàn thể về vốn liếng của mình cả trình độ lẫn nhân cách. Một cô gái không biết run rẩy sẽ không thể nào đạo hạnh. Một người đàn ông không run rẩy sám hối sẽ không thể trở nên cao thượng. Một cỗ máy khám phá sao hỏa nếu không nhờ những chùm ăng ten nhậy cảm sẽ không thể nào vượt địa hình phức tạp. Nhà văn, nhà thơ muốn đào luyện mình trở nên cao cả càng cần yếu đuối và run rẩy và trắc ẩn trong tâm hơn ai hết. Nhưng các ông lại đang hùng dũng cán đích giải thưởng gắp cho nhau băng mọi giá. Đó chỉ là cách soạn trước diễn văn bế mạc theo công thức của các hội nghị mà thôi. Các ông càng hùng dũng bao nhiêu thì càng yếu ớt và đơn giản bấy nhiêu. Vì đó chỉ là sự hùng dũng của cơ bắp và những cỗ máy đơn giản. Hãy nhìn xem, cái xe cải tiến đi băng băng, đơn giản lắm, ít hỏng lắm, nhưng làm sao nó có thể mang hàng triệu ăng ten nhạy cảm như cỗ máy chinh phục vũ trụ?

Ôi nhà văn, nhà thơ quần chúng mậu dịch nước Nam ta, mới chỉ có chân đất, thơm mùi đống rơm, đống rạ làm sao có thể đi xuyên qua thế kỷ và thời đại để đi đến “giờ thứ 25”? Làm sao có thể “Chân dép lốp mà lên tầu vũ trụ”? Nếu có kiếm được chút vinh quang chỉ là đi nhờ mà thôi. Nhưng ngay cả cái việc đi nhờ ấy, chân dép lốp còn sang hơn chân đất, mà có được cấp phát dép mậu dịch cũng chẳng bao giờ leo được lên tầu lượn, chứ không nói tầu vũ trụ. Việc các ông trao giải cho nhau chỉ là cách đóng dấu cho chân đất mà thôi. Chân đất ngồi lỳ xó bếp dù có được đóng dấu cũng còn xa mới tới được đôi chân của kẻ hành hương mang tín ngưỡng của miền đất hứa trong đầu, và cũng còn thua xa một đôi chân biết nhảy trong vũ điệu. Chân hành hương hay chân biết nhảy ở các nước có khi là toàn thể dân số, còn ở ta vẫn còn mang chân đất ra làm duyên một cách hiếm hoi như vàng, rồi còn ẵm giải quốc gia của đồng đội cánh hẩu nữa, quả là bất sánh về mỹ học quê mùa!

Có mấy lời chia sẻ với làng văn và bạn đọc. Xin cám ơn!

NHĐ  30/1/2012

Tác giả gửi cho NTT blog

Nguồn: Nguyen Tuong Thuy's blog