Thứ Tư, 31 tháng 10, 2012

Quán cũ

Lâu lắm rồi, hắn mới lại ghé cái quán cà phê ấy. Chỗ gắn bao nhiêu kỷ niệm vui buồn. Hắn cũng cửng rõ nguyên nhân chính nào khiến hắn bỏ cái quán đó tới hơn 1 năm trời chẳng ghé?!

Nhiều người từng ghé chân cùng hắn chẳng thích cái quán đó. Ai cũng chê cái nhà vệ sinh chềnh ềnh ở góc vườn hoa đập vào mắt. Nhưng tuyệt nhiên, bao năm ngồi đó, hắn chẳng để ý gì cả. Thật, nếu để ý kỹ thì nó rất vô duyên, nhưng chưa bao giờ hắn bận tâm về nó.

Lý do ư? Hình như là do con mụ chủ nâng giá. Tự nhiên lại tăng thêm 3.000 đồng một cốc cà phê, dù rằng có thực cái lạm phát phi mã nó ảnh hưởng tới ít nhiều. Mụ tăng giá là vì mụ quyết sửa cái quán lại trông cho nó khang trang hơn. Giờ hẳn trông nó mới hơn, với lớp sàn đá mới, và cả quạt, cả đèn.

Hắn là thằng hoài cổ, chẳng thích thế. Hắn yêu cái lớp tường vôi tróc, mỗi mùa mưa ẩm là nó lại nổi lên những lớp ố vàng. Cái màu vàng của vôi ố theo thời gian hợp với cảnh lá bàng rơi mỗi khi mùa đông đến. Cái nền gạch vỡ, nhấp nhô do nhiều nhà xung quanh mới xây cất, càng làm tăng thêm tuổi thọ cho cái không gian liêu xiêu.

Cái quán chỉ là một phần trong bức tranh của hắn. Hắn rất thích ngồi trong phóng tầm mắt qua vườn hoa đối diện, ngắm ánh đèn vàng hắt qua tán cây mỗi buổi mặt trời khất bóng. Ở đó có bóng dáng của một cái không gian Pháp, vừa có cả nét của một Hà Nội xưa trong ký ức. Ở đó, hơi thở của một Hà Nội cổ xưa hòa chung với nét lãng mạn của Pháp. Cái vườn hoa ấy nằm sát con đường hắn từng cầm cành đào bán ngày Tết, ngắm màu vàng của quất mỗi độ Tết đến, Xuân về, và cả hình ảnh của cô gái bán hoa đứng bên hè trong chuyện Một Kiếp Người.

Cố nhiên, phố giờ chẳng còn những nhà cổ ngày xưa. Toàn nhà mới cao tầng hiện đại. Nhưng những hàng cây có tuổi đời lớn hơn cả tuổi hắn, che chắn thật khéo léo, khiến không gian trở nên hư ảo, giúp hắn đánh lừa được thị giác. Hắn mặc sức hồi tưởng. Ánh đèn vàng hiu hắt đưa hắn trở về những ngày mẹ đạp xe đưa con thong dong qua phố vắng.




Thứ Ba, 30 tháng 10, 2012

CHỨNG NGỘ (*)


(*) Tiêu đề do tác giả tự đặt

(....)
Trong khi ôm cuốn sách 1892, tôi thấy lóe lên vài tia hào quang của trực giác: thì ra tôi không có lý tưởng nào cả, không có hoài vọng nào cả, không có lập trường nào cả, không có chủ trương nào cả, không có hứa hẹn chi với ai cả, không tự công nhận mình là một thực thể giữa những thực thể. Quyết nhiên không phải môi trường sinh hoạt của nhân loại nói chung đã tạo nên cái thấy đó. Quyết nhiên không vì chán nản vì lo sợ vì ước muốn vì say mê mà có cái thấy đó. Cái thấy đó hồn nhiên tĩnh mạc mà xuất hiện. Lấy gậy đập vào tôi, lấy đá ném vào tôi láy súng bắn vào tôi lấy lửa đốt tôi đi, Nguyên Hưng sẽ thấy tan biến cái hình dáng cái ý niệm về con người tôi mà cả tôi và Nguyên Hưng đã từng tạo dựng nên, đã từng tưởng là có thực, mờ ảo như mây khói, như hư vô nhưng sẽ không phải là mây khói là hư vô, không xấu xí không đẹp đẽ nhưng vẫn có xấu có đẹp như hình bóng trên màn bạc.

Lúc ấy, Nguyên Hưng ơi, tôi thấy tôi trở về. Áo của tôi, giầy của tôi, ngọn đuốc của tôi mất hết. Tôi chỉ còn là một con châu chấu vô tư nằm trên lá cỏ, Ừ, đúng là một con châu chấu. Nó không nhớ lại tiền thân. Tiền thân của nó biết thế nào là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Tiền thân của nó biết thế nào là tăng, giảm, cấu, tịnh,sinh, diệt. Nó nằm trên lá cỏ, không phải để xa lánh, để phản đối, để chê bai. Trẻ con thích những con chuồn chuồn có cánh đỏ và mình đỏ như những trái ớt. Nó mầu xanh, lẫn trong cây cỏ, ít đứa nào thấy. Nó không trốn, nhưng mà nó không gọi. Nó không biết triết học là gì và nhất là lý tưởng là gì. Nó cảm ơn bài học của cuộc đời. Nguyên Hưng ơi em sẽ chạy hấp tấp qua đồng cỏ để đón đứa trẻ năm xưa trở về. Và khi trông thấy tôi, Nguyên Hưng sẽ trở lại. Trong lúc tâm hồn em tràn đầy thất vọng, em sẽ may mắn tìm thấy nó trên một lá cỏ.

(...)
Cửa sổ phòng tôi để mở rộng suốt ngày đêm, như một lời cầu nguyện. Chuyện xảy ra cho tôi không phải là một chuyện vui, nhưng không phải là một chuyện buồn. Có những vấn đề của sự sống mà ta không thể xem là những vấn đề có thể nghiên cứu và tư duy. Ta phải sống, phải chết với chúng, phải giao chiến, phải đồng nhất với chúng. Chúng không thuộc riêng phạm vi của trí tuệ, chúng có gốc rễ ở cả phạm vi của tình cảm và ý chí nữa. Chúng khua động tiềm thức và bản thể. Chúng thống trị tim óc xương tủy máu huyết của con người. Nó là một hủy thể, rồi nó trở nên hủy thể của hủy thể. Còn tôi thì thành một bãi chiến trường.

Ra khỏi cơn bão tố thì mới biết còn hay mất. Còn hay mất đây không phải chỉ cho sinh mệnh - còn hay mất đây chỉ cho một cái gì quan trọng hơn sinh mệnh, đó là cái ta, cái ta trước giờ bão tố. Lúc đó tôi cảm thấy tôi rất cần những người thương yêu nhưng tôi cũng biết rằng nếu có mặt họ trong những lúc đó thì tôi lại càng cô đơn hơn, càng đau khổ hơn. Có lẽ tôi phải đánh đuổi họ, hoặc là tôi trốn chạy họ, nghĩa là tôi phải đánh đuổi tôi.

Nguyên Hưng khi bão tố đã gây xong tan nát, khi những lớp vô hồ rã xuống thì quanh cảnh cũ cũng vừa tan. Trong hoang vắng có một vài tia nắng xuất hiện từ chân trời xa rọi tới. Những tia nắng đó đã không sưởi ấm được cảnh tượng chút nào mà còn làm tăng thêm tính chất cô đơn và hoang tàn của mặt đất. Tôi xuất hiện trầm lặng, mình mang đầy thương tích và rất cô đơn, một thứ cô đơn tuy có sức mạnh nhưng vẫn là cô đơn.

Trong hình thể mới, tôi biết Nguyên Hưng không nhìn ra được tôi. Và những người tôi nghĩ là thân yêu cũng không nhìn ra được tôi. Mọi người muốn tôi nguyên vẹn như chú bé ngày xưa. Làm sao mà có thể như thế được, Nguyên Hưng. Làm sao tôi có thể vừa sống vừa không sống như thế được. Sống nghĩa là phải chết, chết trong từng giây từng phút, chết trong cơn bão tố để làm điều kiện cho sự sống phát sinh mãi mãi hoài hoài.

Nguyên Hưng hãy xua đuổi tôi đi, mọi người hãy xua đuổi tôi đi. Tôi không thể vừa sống cuộc sống của con người vừa làm một đối tượng bất biến cho sự thương yêu, cho sự ghét bỏ, cho sự nhàm chán cho sự chiêm ngưỡng. Tôi phải lớn và vì vậy những chiếc áo mẹ tôi may cho tôi ngày trước đã phải rách ở những đường chỉ. Tôi có thể cất kỹ vào rương kỷ niệm những chiếc áo còn thơm mùi trẻ thơ và phảng phất tình thương của mẹ, nhưng tôi phải có áo khác để mặc cho vừa kích thước. Áo của tôi, tôi muốn tôi được tự may lấy. Tôi không tìm ra được thứ áo mà xã hội may sẵn.

Chiếc áo tôi, trước mắt xã hội, sẽ có vẻ dị kỳ, sẽ không được chấp nhận. Tôi biết điều đó. Mà đây không phải chỉ là vấn đề một chiếc áo - đây là vấn đề của cả con người của tôi. Tôi từ chối tất cả những thứ thước đo người ta bắt buộc chúng ta phải dùng. Tôi nghĩ rằng tôi có một thước đo riêng của rôi, do tôi tìm ra. Và như vậy là tôi phải khai chiến với thiên hạ rồi, phải không Nguyên Hưng. Tôi khai chiến với xã hội, tôi khai chiến với tất cả những ai xâm phạm nhận thức độc lập của tôi. Nhưng mà còn Nguyên Hưng còn những người thân yêu thì sao? Tôi bắt buộc phải khai chiến với em, với tất cả mọi người - bởi vì tôi không thể không là tôi, bởi vì tôi không thể lai chui vào trong cái vỏ cứng mà tôi vừa phá vỡ để thoát ra. Đó là nguyên do của sự cô đơn.

Tôi biết tôi có thể dùng cái vốn liếng tình cảm cũ để ép đưa Nguyên Hưng cùng đi với tôi trong một chuyến du hành không gian, chuyến du hành mà đôi khi chính tôi cũng cảm thấy chóng mặt. Nhưng không gian thì quá hoang vắng và tốc độ thì không thể nào lường trước được. Liệu Nguyên Hưng có thể ngồi lâu một bên tôi được không hay là lại choáng váng lại sinh lòng oán hận thù ghét tôi. Lại ép tôi phải trở về ngay trên mặt trái đất, nghĩa là trên mặt phẳng của những ước lệ những bảng giá trị cố hữu giả tạo? Như thế có lợi chi cho cả hai bên, cả Nguyên Hưng cả tôi hay không?

Cho nên tôi muốn đốt cháy cái túp lều hiện giờ đang làm chỗ trú ngụ của Nguyên Hưng. Tôi muốn gây xúc động, gây hoang mang, gây hỗn độn cho Nguyên Hưng có thể đập vỡ được cái võ cứng đã từng giam hãm mình, bẻ gãy những xích xiềng đã từng ràng buộc mình và phá tan những thần tượng đã từng chế ngự mình. Để vươn lên và để nhận thấy rằng mình không thể còn đau khổ còn sung sướng vì những cái bé nhỏ. Để sống như những người tự do, không chấp nhận một luật lệ nào hết của sự sống. Có lẽ giây phút huy hoàng nhất là giây phút mà tôi được chứng kiến sự trở về của Nguyên Hưng - tôi ưa gọi đó là một sự trở về - Sẽ đẹp tuyệt vời cái giây phút Nguyên Hưng vừa thoát ra khỏi trạng thái hỗn độn nhiệm mầu gây nên cho Nguyên Hưng bởi sự tiêu hủy của túp lều ẩn cuối cùng. Tôi hình dung được hình bóng của Nguyên Hưng vừa thoát ra khỏi chiếc vỏ cứng ngàn đời, đứng oai hùng trong ánh sáng rực rỡ của túp lều đang bốc cháy ngùn ngụt. Giờ phút ấy là giờ phút mà Nguyên Hưng bắt đầu có hết. Và chỉ bắt đầu từ giờ phút đó tôi mới thực sự có Nguyên Hưng.

Tuổi trẻ là tuổi đi tìm chân lý. Ngày xưa tôi viết trong nhật ký; dù sự thực có tiêu hủy anh, anh cũng phải bám víu vào sự thực. Như thế là tôi đã biết rất sớm rằng tìm thấy sự thực không phải là tìm thấy hạnh phúc. Anh ao ước trông thấy nó, nhưng hễ trông thấy nó rồi là anh không thể không khổ đau. Thà rằng anh không thấy gì hết, thà rằng anh chịu sự điều khiển của một người độc đoán của một người hay một đám người khác. Mỗi người đều tự xét mình và xét đoán kẻ khác bằng những nhận thức và những tiêu chuẩn vốn không phải là của mình. Đó chỉ là những gì tạo ra do ước lệ do truyền thống. Đó là những thước đo mà con người chung quanh, ở trật tự hiện htời của xã hội mà mọi người đang phải chấp nhận.

Nguyên Hưng cho cái này là xấu, cái kia là tốt, cái này là thiện, cái kia là bất thiện, cái này là chân, cái kia là ngụy. Nhưng mà những tiêu chuẩn để đoán định ấy vốn không phải là của Nguyên Hưng. Nguyên Hưng đi mượn thước đo. Những cái thước đi mượn không bao giờ có thể gọi là chân lý cả. Chân lý không thể đi mượn, chân lý chỉ có thể thực chứng. Chân lý là trái của thực nghiệm tâm linh, của khổ đau, của sự xúc tiếp giữa tâm linh và thực tại, thực tại hôm nay cũng như thực tại muôn đời. May mắn lắm, hoặc rủi ro lắm con người mới bắt được nó. Và nó của người này không phải là nó của người khác, nó của hôm nay không phải là nó của hôm qua. Nếu Nguyên Hưng khám phá được một cái gì mà Nguyên Hưng biết là sự thực của hôm nay do tâm linh của Nguyên Hưng ấn chứng thì Nguyên Hưng sẽ thấy mọi giá trị cũ đảo loọn và Nguyên Hưng sẽ có một lối nhìn mới nó khiến cho Nguyên Hưng vượt thoát những ước lệ, những thành kiến, những kiến chấp, những tiêu chuẩn và những trật tự…

Có những khuôn vàng thước ngọc ngày xưa nay đã được nhận thức như đã mang tính cách phong kiến. Khi Nguyên Hưng đã đạt tới một tiêu chuẩn nhận thức chân xác về thực tại rồi thì Nguyên Hưng không thể còn giả dối và chấp nhận những gì đã trở thành sai lạc trước mắt Nguyên Hưng. Nguyên Hưng sẽ hành động theo nhận thức mình và như thế chỉ biết tuân theo quy luật của sự sống do nội tâm Nguyên Hưng ấn chứng mà từ bỏ tất cả mọi quy luật của xã hội hiện tại. Xã hội sẽ trả thù Nguyên Hưng một cách đích đáng vì Nguyên Hưng đã dám cãi lại trật tự của nó lịch sử nhân loại đã chứng kiến những cuộc trả thù ấy. Bao nhiêu thảm kịch xảy ra, thầm lặng, bi thiết. Lịch sử nói “mi sẽ chết nếu mi cãi lại”.

Vây mà bao nhiêu người dám, tuy nhận thức sự yếu đuối của mình, cãi lại bóng tối. Bất cứ ai lỡ trông thấy sự thực, lỡ chia xẻ nhận thức về sự thực ấy với những bậc vĩ nhân thì dù ít dù nhiều phải chịu chung số phận của họ. Chịu chung số phận mà không chịu chung danh vọng. Nguyên Hưng, tôi đã nói rằng những tia nắng đầu rọi trên cảnh tượng tan nát sau cơn bão tố dù có chứng nhận được cho một cuộc thoát hình, vẫn chỉ làm cho cảnh tượng là mình đang mang những đau xót của một bà mẹ khi chưa sinh con mà đã biết trước rằng con mình sẽ bị lên án tử hình.

(...)
Nguyên Hưng, một buổi sáng, tôi thấy trời hé nắng, tôi nhận được một cái thiệp chúc sinh nhật từ nhà gửi qua. Hôm đó quả đúng là ngày sinh nhật của tôi. Mà cũng là ngày tôi được tái sinh một lần nữa, không biết lần thứ mấy. Trong một lá thư, Tuệ chép cho tôi ba câu thơ của Trụ Vũ: “tôi đi giữa sa mạc hiu quạnh một con gấu bỗng đến vồ tôi nhưng tôi ngó thẳng vào mặt nó…” Nhưng tôi ngó thẳng vào mặt nó! Phải tôi đã ngó thẳng vào mặt nó, và đã thấy được mặt mũi nó rồi. Tôi như một người vừa được giáp mặt tử thần. Tôi như một người ốm nặng vừa mới bình phục. Tôi mặc áo, xuống đường và lững thững trên hè phố, thèm khát ánh nắng buổi mai sau một chuỗi ngày u ám. Gió bão dịu dần.

(Nẻo về của ý - Chương 7 - Thích Nhất Hạnh)
Nguồn: vnthuquan.net


Thứ Hai, 29 tháng 10, 2012

Xuân muộn

Năm ấy mùa đông kéo dài quá. Cái băng giá của mùa đông khiến không cảnh trở nên quạnh quẽ. Những mầm sống chôn vùi dưới lớp băng tuyết dần tan vẫn chưa thể tìm thấy ánh mặt trời.

Mùa đông phủ lên vạn vật một màu xám u uất, buồn tẻ. Cảnh thu cuối còn vương vất lại trong tâm trí là những cây bên góc phố khẳng khiu, vừa trút những chiếc lá cuối cùng. Hàng cây ấy đã già và không còn mang trong thân nhiều sức sống, nhưng vẫn phải cố bám trụ lại trên mặt đất để che chở cho đám cây non chờ ngày cứng cáp.

Mới ngày nào, những chiếc lá xanh dù nhỏ, nhưng vẫn đủ làm tươi lên cả một khoảng không gian. Nhưng nay trở nên còi cọc, sẵn sàng chịu khổ hạnh để sống sót qua mùa đông rét mướt. Những chiếc cành xương xẩu in rõ lên nền trời xám xịt.

Mùa Đông mang đến băng giá, khắc nghiệt đôi khi đến tàn bạo, không dễ gì buông tha cho những sinh linh không giàu sức sống. Nó sẽ dìm chết những gì non nớt, bé bỏng, phù hoa. Chỉ có thể vượt qua mùa đông bằng sự cô độc và giàu tính chịu đựng.

Mùa đông kéo dài. Cảnh vật càng trở nên cô tịch. Ánh mặt trời, bằng tất cả sự cố gắng yếu ở cố vượt qua những đám mây, mang hơi ấm cho cỏ cây. Những mầm non gắng vươn lên hứng lấy để có thêm chút nhựa sống.

Xuân muộn!


Chủ Nhật, 28 tháng 10, 2012

Mưa



Mưa về. Cơn giông có mang theo thêm ít gió. Gió giật không mạnh nhưng cũng đủ sức là cho tán cây kêu loẹt xoẹt trên mái tôn.

Xưa mỗi lần nghe bão về là nó lại sợ. Nó sợ những quả bưởi sau ngõ gõ lên cái mái ngói. Tiếng gõ không lớn bằng tiếng sấm rền vang vọng, nhưng nó tạo ra những ám ảnh về một con ma lẩn khuất đâu đó trong căn vườn.

Có những năm bão về sớm, nó thường ngồi bên cửa sổ ngó ra ngoài. Những hàng cây oằn mình trong gió. Nhất là hàng cây hồng xiêm sát tận bờ rào. Những cành ngả nghiêng bị gió lay quật, tưởng như sắp gãy, vậy mà vẫn sống sót được qua bao nhiêu cơn bão. Nó thường rình trộm vào những buổi trưa ông nội ngủ, trèo lên nắm trộm vài quả. Vì chỉ mấy ngày nữa, bà nội lại gọi người vào bán hết những quả đang căng tràn sức sống. Phần còn lại không đẹp mã, bà thường cho vào trong chum và dấm bằng đèn dầu.

Có bận mưa to, sân ngập lội bì bõm. Nó thích nhìn mưa sủi cả bong bóng. Những bong bóng trôi từ đầu sân gạch qua phía miệng cống rồi mất hút luôn. Có lẽ, nó thường sống nội tâm nên thấy cái kiếp của bong bóng kia thật ngắn ngủi. Chỉ một quãng ngắn bằng chiều dài của sân thôi, nhưng mà cũng đã khẳng định được sự hiện diện của mình.

Khoảng sân rộng nối với ngõ, có hai hàng chậu cảnh. Cứ mỗi mùa mưa bão, sân ngập là có cá rô rạch từ hồ lên. Nó và thằng em cứ lao thẳng ra ngoài trời khi cơn mưa vừa dứt. Bắt rồi thả ngay, nhưng mà thú. Có khi hai anh em vật nhau ngã trong vũng nước mưa.

Tiếng mưa giờ khác lắm. Nó lộp bộp trên mái tôn với một thứ âm thanh chói tai. Chứ không như tiếng mưa xưa trên mái ngói đã nhuốm màu xanh rêu của thời gian. Nước giờ chảy qua ống máng xối xả, vồn vã, chứ không lách rách theo qua đường rãnh.

Mưa xưa chẳng khác mưa nay. Vẫn là những hạt mưa trong vòng tuần hoàn của nước, hay là ông trời buồn nên khóc như những câu mẹ vẫn hay dặn trêu đùa.

Cảnh thì khác. Đó là cảnh của một cuộc sống hiện đại hơn. Với những vật liệu chống rêu mốc, chống gỉ trên cái mặt mái ngửa mặt lên đối thoại với trời.


Tại sao lại là 10?

Mới sáng thấy có thông tin từ bác Vũ Đức Đam rằng, Thủ tướng sẽ không còn chịu trách nhiệm trực tiếp đối với toàn bộ 21 tập đoàn, tổng công ty hiện có. “Danh sách cuối cùng sẽ được các thành viên Chính phủ biểu quyết. Tuy nhiên, số tập đoàn do Thủ tướng chịu trách nhiệm trực tiếp chắc chắn sẽ dưới 10”, ông nói.

Có lần, thấy ai đó tán nhảm rằng, số 10 thường gặp nhiều may mắn ngay cả trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. Họ thường có cuộc sống viên mãn, và đạt được những thành công ngoài mong muốn của mình.

Hay kiểu, về cuộc sống cá nhân, cuộc đời những người thuộc con số 10 có nhiều biến động. Tuy nhiên, mỗi kết thúc một sự kiện nào đó trong cuộc đời họ đều hứa hẹn sẽ có một sự kiện mới mở ra tốt đẹp hơn.

Trên trống đồng Đông Sơn có 10 ngôi sao, còn trống đồng Hữu Chung có 10 con chim bay quanh.

Hoặc cũng có thể số 10 mang ý nghĩa không quá bán của 21. Nhưng chuyện quản lý kinh tế chẳng phải chuyện đùa. Nhất là vai trò của nền kinh tế nhà nước, với Tập đoàn và các Tổng công ty làm đầu tàu, là cực kỳ quan trọng. Không phải là chuyện có lãi, mà là trách nhiệm chính trị to lớn.

Thế nên, nếu Thủ tướng có đủ năng lực, thì cứ giao cho quản lý tất cả, chứ sao lại giao cho chưa đến 1 nửa. Còn nếu không có năng lực, thì việc 10 Tập đoàn, Tổng công ty đó bết bát, thì cũng đủ để khiến cho nên kinh tế lao đao.

Nên nhớ, Vinalines + Vinashine = 2. Thử tưởng tượng 10 thì sẽ thế nào?

Chuyện quản lý nó không giống như chia cổ phần, phân room cho nhà đầu tư nước ngoài mà quy định theo kiểu nắm tối đa 49%.

Và khi Thủ tướng không có năng lực, thì thử đưa ra 1 ứng viên tiêu biểu để còn biết mặt. Vì nhỡ ra, hơn 11 TĐ và TCT kia cũng toi thì còn biết ai là người chịu trách nhiệm chính trị.


Thứ Bảy, 27 tháng 10, 2012

Nước sông công lính

Xưa có câu: "Nước sông công lính". Nước sông thì nhiều, còn công lính thì chẳng ai tính. Tất nhiên, ngày xưa nước sông nhiều hơn bây giờ, vì cứ theo như ngoài thực địa, nước sông Hồng có những thời điểm cạn khô do phải chịu sự điều tiết xả lũ từ thượng nguồn. Các sông khác chắc cũng rứa, với tốc độ phát triển thủy điện như hiện nay.

Còn ngày nay, công lính chắc cũng chẳng khác xưa. Nhất là khi Việt Nam vẫn duy trì một tỷ lệ lính trên số dân chẳng kém trước là mấy, để duy trì một nền quốc phòng toàn dân.

Người ta đã rất ngạc nhiên khi Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Trần Trí Thành,  trước câu hỏi của phóng viên về giá thành của nhà máy điện hạt nhân khị bổ sung công nghệ mới đã được Việt Nam tính toán chưa, ông đã bảo rằng: “Chưa xác định giá thành nhà máy điện hạt nhân ở Việt Nam!” 

Một dự án khổng lồ với chi phí cho mỗi nhà máy khoản 10 tỷ USD theo dự tính ban đầu, và tất cả khoảng 30 tỷ USD cho 3 nhà máy như theo kế hoạch, mà những người lãnh đạo dự án lại vô tư tuyên bố “chưa” xác định giá thành.

Hãy thử tưởng tượng, có một người đến vay tiền của bạn với kế hoạch làm ăn, như cách nói ban đầu là "rất hoành tráng":

- Ông cho tôi mượn tiền đi. Tôi có dự án kinh doanh này hoàn hảo lắm. Sản xuất gió.

- Định đầu tư bao nhiêu?

- 30 tỷ USD.

- Thế gió bán theo m3, hay theo cân. Định bán bao tiền 1 sản phẩm.

- Ừ. Còn đang phải tính, chưa xác định được.

Đoan chắc một điều, nếu xây xong một dự án kinh doanh vội vã kiểu như thế, nếu không hiệu quả thì cũng...hòa cả làng.

Vì tiền là tiền chùa (do không được công khai và có người giám sát độc lập), trách nhiệm cùng lắm thì là phê bình, thì ai mà chẳng đầu tư được. Nên các cụ nói "nước sông công lình", thì cứ vô tư đi!


Thứ Sáu, 26 tháng 10, 2012

Chuyện ăn cắp

Theodore Roosevelt từng nói: "Một người chưa bao giờ đến trường có thể ăn cắp một chiếc xe hàng, nhưng nếu được đào tạo đại học anh ta có thể ăn cắp cả một tuyến đường sắt". (A man who has never gone to school may steal from a freight car; but if he has a university education, he may steal the whole railroad)

Bữa trước có nói, ngày xưa ra ngõ thì gặp anh hùng. Còn nay, ra ngõ là gặp cướp. Có những kẻ cướp chiếc túi sách, dây chuyền; còn cũng chẳng thiếu những kẻ ăn cắp cả một "tuyến đường sắt" như trên.

Những kẻ ăn cắp "xe hàng" thường là những kẻ đói, thiếu thốn nên làm liều. Còn những kẻ rắp tâm ăn cắp những tuyến đường, dự án thực mưu cầu những thứ vật chất hơn cả mức bình thường. Bởi chúng là những kẻ có đầu óc, có thể tự làm nuôi thân, nhưng muốn có lợi lộc lớn trong một thời gian ngắn.

Thằng trộm vặt thường dễ nhận ra, lén lút và nét gian manh thường hiện rõ - cảm giác phập phồng thấp thỏm khi chuẩn bị thực hiện hành động của mình. Còn kẻ trộm lớn thường ngụy trang, trá hình rất tốt. Những phi vụ lớn thường đòi hỏi thời gian dài và sự tính toán kỹ lưỡng.

Nhất là khi, hệ thống xã hội không thể giám sát, phát hiện và xử lý nghiêm minh, thì những kẻ có bản chất ăn cắp khi lọt được qua hệ thống, mang được cái "mác" có học thì thực sự rất nguy hiểm. Nó gây nguy hại cho toàn bộ xã hội, và đánh cắp không chỉ những thứ hiện hữu, mà còn cả tương lai của rất nhiều người.


Thứ Tư, 17 tháng 10, 2012

Lâm Tế Ngữ Lục trích


Này các bạn tu! Những người xuất gia còn trẻ thì cần phải học đạo; tôi đây (hồi còn trẻ) ngày nào cũng lưu tâm học hỏi giới luật và uy nghi, và đã từng nghiên cứu tìm hiểu và tham vấn không biết bao nhiêu kinh luận.

Sau một thời gian tôi mới biết đó chỉ là những phương dược cứu đời, được diễn bày qua hình thức lý thuyết. Vì vậy cho nên tôi đã nhất thời buông bỏ tất cả để đi tham vấn và tập thiền. May mắn vì gặp được các bậc thiện tri thức lớn cho nên tôi mới có được con mắt đạo để có khả năng nhìn thấy rõ ràng nhận được ai thật sự là những vị cao túc đang có mặt ở trên đời, ai là giả dối.

Cái thấy này không phải tự mình có được từ khi mẹ mình sinh ra, mà là thấy do sự mài dũa, luyện tập, thể nghiệm và nghiêm tầm rồi một mai tự mình chứng ngộ.

[.....]

Này các bạn tu, chân lý khó đạt tới, Phật pháp rất u huyền, tuy nhiên ta vẫn có thể đi vào các lãnh vực ấy để đạt được kiến giải. Ngày này qua ngày khác, tôi chỉ ngồi đây mà thuyết giảng và đánh phá, những hầu hết bọn họ có chịu để ý đâu.

Ngàn lần vạn lần họ vẫn tiếp tục dẫm chân lên những cùng đất đen tối, không nhận ra được một cái gì rõ ràng, độc lập, chiếu sáng. Chỉ vì các vị còn thiếu đức tự tin, cứ đi tìm kiến giải trên chữ nghĩa văn cú. Nửa đời người đã đi qua mà vẫn còn ỷ lại vào kẻ khác, tiếp tục khiêng tử thi của chính mình như mộ gánh nặng mà đi trong cõi nhân gian.

(....) Này các vị đại đức! Khi nghe tôi nói rằng ngoài kia không có pháp gì để tìm cầu cả thì lại có những kẻ học nhân hiểu lầm, nghĩ rằng phải đi tìm ở bên trong. Họ ngồi xuống bất động, quay mặt vào tường, lưỡi dán vào nóc họng, cho rằng đó là pháp môn của Bụt, của Tổ. Họ lầm to!

Nếu quý vị cho rằng cái tĩnh (cảnh thanh tịnh bất động) là đạo thì quý vị đã nhìn nhận cái vô minh là ông chủ. Ngược lại, quý vị nhận cái động là đạo thì hóa ra các loài cây cối đang động đậy ngoài kia là đạo hay sao? (...)

Nếu quý vị muốn tìm nó trong cái động, nó sẽ đứng trong cái tĩnh; nếu quý vị muốn tìm nó trong cái tĩnh, nó sẽ đứng trong cái động, giống như con cá trong dòng suối đang vỗ sóng nhảy lên.

(Lâm tế Ngữ Lục - Người Vô Sự - Thích Nhất Hạnh)


Thứ Ba, 16 tháng 10, 2012

Diễn

Ở đời ai chẳng từng diễn. Ai nói tôi chưa từng "Diễn" thì thực khó tin lắm. Chúng ta biết diễn từ bé, khi bị mẹ mắng cần chối tội, hoặc khi bị điểm kém nhưng phải nói sao cho khỏi ăn đòn. Và những lý do được đưa ra, kèm với đó là việc biểu hiện sao cho đạt. Càng lớn, tần suất các vở diễn càng nhiều. Và cuộc đời là một vở diễn lớn.

Chính trị thì lại càng phải diễn. Xem cuộc tranh luận bầu cử Tổng thống Mỹ 2012, mới thấy họ diễn tốt thế nào. Ai dám chắc, 1 trong 2 ông lên đều thực thi tốt những chính sách đã cảm kết trong cuộc vận động tranh cử. Mà điều này, nói luôn, là bất khả thi. Nhưng tạo sao họ phải diễn.

Hãy xem họ là những diễn viên trên sàn diễn chính trị. Đầu tiên phải nói, họ phải diễn. Họ được trả lương để diễn. Và dân chúng chính là những khán giả phải mua vé - những tấm vé được mua bằng tiền thuế. Chất lượng vở diễn và tài năng diễn viên, chính là lý do để họ tiếp tục mua vé xem hay không? Nhưng một vấn đề đặt ra là, tại sao họ biết tỏng gần như kết cục vở diễn rồi, mà vẫn mất tiền.

Lý do chính là: việc khẳng định niềm tin và ngày càng nâng cao nhận thức. Khi mua một chiếc vé, người ta có lý do để khẳng định mình nghĩ đúng. Ai chẳng muốn mình đúng, cho dù trong tương lai niềm tin đó có thể bị phản bội. Nhưng họ khẳng định sự lựa chọn của riêng họ.

Qua mỗi một cuộc vận động, những bài diễn thuyết, những cuộc tranh luận không vô nghĩa. Người dân thực muốn nghe, họ sẽ thu nhận được rất nhiều thông tin. Đó là cái vốn tri thức dẫn tới quyết định của họ. Các chính sách về cắt giảm thuế, quyền phụ nữ, đầu tư ở Trung Quốc được biện giải rành rọt, luôn là những bài giảng cô đọng và có giá trị với mỗi người dân muốn tham gia vào quá trình điều hành và giám sát đất nước. Thêm nữa, họ biết đại cử tri mà mình bầu bỏ phiếu cho ai, có phù hợp với nhận định của mình hay không?

Thực ra, chỉ có 2 vai trò cho con người trong bối cảnh này. Một là họ sẽ làm diễn viên, hoặc không, sẽ phải làm khán giả. Và khi làm khán giả, họ có quyền đòi hỏi một vở diễn với chất lượng cao.

Thứ Hai, 15 tháng 10, 2012

Lịch sử và những chiếc đinh

Trong buổi tọa đàm "Lịch sử và văn hóa qua tự sự nghệ thuật của Nguyễn Xuân Khánh”, tác giả của cuốn tiểu tuyết Hồ Quý Ly nói rằng: "Lịch sử chỉ là chiếc đinh treo cho văn chương".

Cũng trong buổi tọa đàm, Giáo sư Phạm Toàn cho rằng, lịch sử là người câm đã đi mất. Người làm khoa học lịch sử cũng chỉ là người ghi chép lại theo quan điểm của cá nhân họ. Vậy ở đây, chính những người làm khoa học lịch sử là người sản xuất những chiếc đinh đó.

Lịch sử bản chất nó là một sự việc, hiện tượng khách quan. Nó cũng như là nguyên vật liệu ban đầu để người làm sử tạo nên những chiếc đinh. Có quan điểm cho rằng, phương Tây chép sử trọng ở sự thật, nên họ thường chép lại chính xác những sự kiện diễn ra. Còn người phương Đông chú ý tới ý nghĩa sự kiện, nên thường chép lại theo ý đồ, diễn giải của riêng họ. Nên vì thế, phương Đông quan tâm nhiều tới dã sử hơn.

Nhưng dù là phương Đông hay phương Tây, lịch sử đúng như trên đã nói, là chiếc đinh để là chỗ treo cho không chỉ văn chương, mà còn là cho văn hóa, văn hiến. Chất lượng của những chiếc đinh đó là rất quan trọng. Tất nhiên, để treo được, nó còn phụ thuộc vào vật liệu nó được đóng vào: là gỗ, tường vôi hay bắt vít vô tường bê tông.
****
Maslow từng nói: "Nếu có trong tay chiếc búa, bạn có xu hướng nhìn mọi việc giống như chiếc đinh". Người làm sử, vừa là người sản xuất đinh, cũng là người cầm trong tay chiếc búa. Với chiếc búa trong tay, họ có thể đóng hay nện vào bất kể sự việc nào họ ghi chép lại.

Nên khi, lịch sử nằm trong tay những kẻ không có sự dũng cảm, lành nghề và thiếu sáng suốt, sẽ chẳng bao giờ có được chiếc đinh treo tốt cả.

Thứ Sáu, 12 tháng 10, 2012

Con Vẹt

Chắc hẳn nhiều người nghĩ: Vẹt biết nói. Nhưng thực, vẹt chỉ biết bắt chước, chớ vùng đại não của vẹt không phát triển giống như đại não để mà nói được. Tất nhiên, ở đây, cái ngôn ngữ là của loài người. Chứ không ai dám bảo, trong thế giới của vẹt, chúng không biết nói.

Cháu mình 4 tuổi, học lớp mẫu giáo, nhưng đã biết đọc thơ. Hỏi làm sao mà cháu đọc giỏi thế, thì nhận được câu trả lời là: "Cô cháu dạy". Nhưng khi hỏi ra, thì cháu chưa biết chữ. Vậy là, chưa cần phải học chữ thì đã được học thơ, học tiếng Anh.

Hôm nay cháu bảo: "Trưa nay cháu ăn súp. Súp là tiếng Anh đấy!"

Hoan hô. Cháu mình giỏi quá!

Lại kể mấy hôm trước, có cháu học sinh viết trong bài tập làm văn "canh gà Thọ Xương" và hiểu rằng đó là một món canh gà. Chẳng thể trách cháu được, vì chữ "canh" bây giờ cũng không còn phổ biến như ngày xưa. Còn ở thành thị thì lấy đâu ra tiếng gà, để mà biết đó là âm thanh điểm chuyển mỗi canh đâu?! Cô giáo khi ra đề, do cẩu thả không giải thích, nên các cháu đã học như một con vẹt. Chẳng trách!

Ngẫm rộng ra, thì ngay cả nhiều người lớn, giữ chức nọ quyền kia có khi phần lớn cũng là những con vẹt. Là Vẹt Già. Vì có rất nhiều điều họ vẫn nhai nhải hàng ngày, từ nhà ra phố, trên các phương tiện truyền thông, mà thực chẳng biết mình nói cái gì. Nhân viên nhại lại lời của sếp, cấp dưới nhại lại lời cấp trên. Ví như, cậu bạn mình tự hào là giảng viên triết học trong 1 trường đại học, nhưng khi mình hỏi "phép biện chứng" là gì, thì đỏ mặt không giải thích nổi (có thể chỉ là cá biệt).

Thế ra, ngay từ nhỏ, chúng ta đã được dạy để trở thành những con vẹt. Và rồi, cả xã hội cứ cất lên tiếng nói như một dàn đồng ca của những con vẹt sặc sỡ.



Thứ Tư, 10 tháng 10, 2012

Bựa

Bựa ở đây không phải nghĩa là "sợ" như ở vùng nào đó (không nhớ rõ), mà có nghĩa là chất còn thừa, tạo thành chất bẩn, bám vào nơi...nào đó. Ví như, bựa răng thì bám vào răng. Mà người ta thường gọi bằng từ hoa mĩ hơn là - mảng bám.

Lại nói đến răng, thì người ta vẫn nói: Cái răng, cái tóc là góc con người. Nghĩa là phải giữ cái dung mạo bên ngoài, đừng tạo ra sự mất cảm tình trong quá trình giao tiếp. Cố nhiên, răng có bựa thì chẳng thể nào gọi là răng đẹp cả.

Mà bựa còn khiến cho răng trở nên không tốt. Nó gây ra viêm lợi, lung lay chân răng, và cả hôi miệng nữa. Chẳng thế, các hãng kem đánh răng đua nhau quảng cáo các loại kem có thể đánh bay các mảng bám một cách cực kỳ hiệu quả.

Nói thế, chứ tránh làm sao được khỏi bựa dính vào răng. Ăn tất nhiên sinh ra bựa. Chẳng lẽ không ăn uống à? Nên bựa là phần sinh ra cùng với quá trình sống của con người.

*****

Nếu xem xã hội, các tổ chức vận hành như một bộ máy, thì nó cũng sẽ phát sinh ra những chất dư thừa bám vào các bộ phận khiến cho bộ máy đấy hoạt động kém hiệu quả. Như cặn, dầu thải chẳng hạn. Cũng có thể gọi đó là Bựa được.

Máy móc bình thường có thể mở ra để lau chùi, chớ bộ máy xã hội cũng giống như răng (máy nhai), chẳng thể dễ mà rửa sách một cách nhanh chóng như thế.

Chọn loại súc miệng nào, bàn chải nào, kem đánh răng nào còn phải xem cái miệng nó có phù hợp hay không? Nếu dùng loại mạnh quá, diệt hết cả những vi khuẩn có lợi trong nước bọt hay miệng, thì khác gì ném chuột mà làm vỡ bình quý.

Vẫn biết bựa là bẩn, là gây nên sự hôi miệng, làm hỏng những chiếc răng, nhưng mà loại bỏ nó đi thì chẳng dễ.

Hơn nữa, ở ta chẳng phải ai cũng có đủ hiểu biết, thời gian, điều kiện, để cứ 6 tháng đi lấy cao răng 1 lần. Mãi cho nhẵn bóng, cho sạch tiệt cái thứ hôi hám đó đi.




Thứ Ba, 9 tháng 10, 2012

Tản mạn chuyện chó

Lông đen hay lông vàng, xù hay mượt, chó nào chẳng là chó. Cũng là từ loài hoang dã do thuần hóa mà gần với con người.

Chẳng biết căn nguyên từ đâu, mà người Tây lại muốn làm bạn với chó, ăn ngủ với chó và gần gũi với chó đến mức đáng ngạc nhiên như thế. Vì thế, mà người với chó luôn gắng đi tìm một ngôn ngữ chung. Người ta dạy chó là một chuyện, nhưng cùng với đó, luôn gắng đi tìm hiểu cả ngôn ngữ của chúng. Nên xem thấy, chó cũng có tâm lý chẳng khác như người. Cũng hờn cũng giận. Cũng ích kỷ, mang tâm lý sở hữu. Cũng ghét, yêu màu sắc nọ kia. Khi có chút ít sự hiểu nhau, thì vốn chẳng đồng thanh tương ứng, vẫn có đồng khí tương cầu.

Chó ta thì hơi khác. Bảo người với chó không phải là bạn với nhau thì không đúng. Nhưng rõ, ở ta nuôi chó đa phần cốt chỉ để giữ nhà. Mà vốn giống cho giữ nhà chỉ cần có độ cảnh giác cao và trung thành là được. Cảnh giác nghĩa là dù ngủ hay thức, thì vẫn phải cố mà vểnh tai lên nghe ngóng. Thấy động khắc sủa. Chó càng cảnh giác cao càng là chó tốt, mang lại sự an tâm cho chủ. Còn trung thành có nghĩa là đừng có cắn chủ, dù bất cứ lý do là gì. Nên những cái thứ giáo dục rườm rà như kiểu Tây, không bao giờ khiến chủ bận tâm. Mà ngôi thứ giữa chó và người luôn phân định rõ rệt. Nếu có trót liếm mặt là không được. Chẳng thế, các cụ mới có câu "nhờn chó chó liếm mặt". Nhưng có thể mặc sức cắn người nếu trót vì lý do nào đó xâm phạm vào lãnh địa của chủ.

Chính từ thái độ và cách giáo dục chó mà sinh ra nhiều chuyện tức cười. Nghe đâu ở đất nước xa xôi nào đó, có 2 cha con vận động viên nổi tiếng chết vì cứu 1 con chó. Hay để sửa tật một con chó, người ta thuê hẳn bác sĩ thú y đến để sửa cho nó. Còn ở ta, chó hết khả năng trông nhà là bị thịt, làm thành món thịt chó nổi tiếng khắp năm châu.

Nếu còn không tin, hay bán tín bán nghi thì cứ bật kênh National Geographic lên mà theo dõi chương trình Dog Whisperer của Cesar thì khắc rõ. Cứ xem vào đó, muốn chó ta có học thức hơn để gần gũi hơn với con người, thì cần phải có sự giáo dục đầy đủ.




Thứ Hai, 8 tháng 10, 2012

Câu chuyện Slogan ngành Du lịch

Chẳng đụng chạm tới thì thôi, chứ mỗi khi bàn tới chuyện du lịch nước nhà, thì lại thấy có nhiều điều kỳ cục. Nhất là chuyện cái Slogan.

Từ "Điểm đến của thiên niên kỷ mới", "Vẻ đẹp tiềm ẩn" đến "Vẻ đẹp bất tận" mà thấy chẳng nhấn mạnh được một yếu tố nào cụ thể. Ngoài có một cái chung chung, như 2 cái slogan gần nhất - Vẻ đẹp.

Đẹp là một cái gì đó thật khó mà định tính, lẫn định lượng. Có người bảo cô Ngọc Trinh đẹp khi quảng cáo đồ lót, bởi cơ thể của cô mà được mệnh danh là nữ hoàng nội y. Nhưng có người lại bảo cô chẳng đẹp tí nào. Hay chuyện cô siêu mẫu Campell của nước Anh quá nổi tiếng, nhưng những người không thích màu da lại chê cô...đen nhẻm.

Vì thế, có người bảo Việt Nam đẹp vì lạ. Lạ là ở chỗ mới mở cửa ra với thế giới nên người ta đến thử một chút cho biết. Rồi sau đó, chẳng mấy ai đặt chân đến lần thứ hai. Chả thế, cái câu chuyện lưu giữ khách ở lại Việt Nam lâu hơn đã được đặt ra từ rất lâu mà chưa có lời giải nào thỏa đáng. Và cũng vì thế, mấy anh quản lý du lịch cũng chỉ giới thiệu điểm đến, rồi sau bỏ ngỏ vì đã thu được đầy cái túi ba gang, chạy sang đầu tư ngành khác.

Nó khiến cho ta có cảm giác, nghe thoáng ở đâu đó có ả đào nổi tiếng lắm. Nhưng ghé qua một lần là lại thấy chẳng hơn cái...đồ nhà. Nói vui vậy thôi. Chớ thực thấy, cái tư duy chung chung nó ăn vào máu các nhà thiết kế khẩu hiệu đại tài. Chứ cứ đưa ra một cái tiêu chí cụ thể thì quá là...há miệng mắc quai.

Nhớ lần đi Thái, thấy cái slogan của họ cũng rất đơn giản mà chân tình - "Land of a thousand smiles". Tất nhiên, chẳng ai đếm, nhưng rõ thấy họ cười nhiều thật. Cười từ sân bay cho tới chợ trời! Hay xem cái quảng cáo du lịch của Malaysia - "Truly Asia", thì thấy họ đưa những hình ảnh đúng là đặc tưng của Châu Á. Từ các phố ẩm thực cho đến những lễ hội ngoài trời.

Có thể tham khảo một loạt các slogan như dưới đây:
  1. New Zealand - 100% Pure New Zealand
  2. Live it. Visit Scotland
  3. Cyprus. The Island for All Seasons
  4. Spain. Everything Under the Sun 
  5. Switzerland. Get natural
  6. Latvia. The Land that Sings.
Kèm theo đó, là cách quản lý lỏng lẻo, bỏ mặc cho cơ sở làm theo ý thích, không theo định hướng đã dẫn tới nhiều hệ lụy. Cứ như vụ khách du lịch Đài Loan mới chết cách đây mấy tuần ở Hạ Long, có lẽ nên đổi lại thành:

Việt Nam - Vẻ đẹp bất tận - Cái chết cận kề 

Bệnh của sự học

Lại nói chuyện cụ Phạm Bân, bố vợ Hồ Quý Ly, giảng giải cho cháu ngoại về y đạo: "Có thứ vương y, có thứ bá y. Vương y là làm cho con người được âm dương điều hoà, trở về quân bình. Con đường ấy lâu và khó, nhưng bền gốc. Còn bá y thì giống như ông tướng cầm quân nóng nảy và quyết liệt. Nó nhanh đấy, tưởng như kết quả đấy, nhưng căn nguyên thì không dứt". (*)

Ông Nguyễn Điền cũng là một danh y thời đó, là người cũng thân thiết với ông Phạm Bân, có thể nói chuyên về Bá y. Lúc chữa bệnh cho vua Trần Thuận Tôn chủ ý sử dụng thuốc kích dương, để giúp vua nhanh chóng thoát khỏi trạng thái sốc về tinh thần sau cái chết của người anh.

"Ông lang Nguyễn Điền cắt thuốc cho ông vua con, toàn những vị đại bổ, những vị kích thích sự sống. Thêm vào đó, ông cắt vài lát thân cây leo đỏ quánh, thứ cây thuốc bí truyền của riêng gia đình ông. Điền nói với Nguyễn Cẩn:
- Cái thứ giây leo này đã một lần làm cho nhà ta vinh hiển, con có biết không?"


Trong khi đó, ông Phạm Bân không thể đưa ra một cái hạn cho việc vua Thuận Tôn khỏi bệnh.

Nói thế để thấy, theo con đường bá y, có thể mang lại danh tiếng và thành tựu thật nhanh chóng.

****

Trong bài "Bàn về Hán Học", ông Phan Khôi đã chỉ ra cái sự học gồm có:  Cái học về nghĩa lý và Cái học về từ chương khoa cử.

"Nói rằng cái học nghĩa lý là nói gọn cho dễ nghe, chứ trong đó bao hàm nhiều việc lắm. Trong đó có một phần lớn tức ngày nay ta kêu bằng "triết học", xét về bản thể của vũ trụ, cùng tính mạng đạo đức là sự cần thiết cho sự sống của loài người; lại một phần nữa kêu là tu thân dạy về sự làm người cho đứng đắn; lại một phần nữa kêu là kinh tế, dạy về chánh trị kinh tế, cái cách để trị nước và an thiên hạ.

Bên Tàu từ đời Hán về sau, nhà vua lập ra phép thi, tức là khoa cử. Ban đầu cũng do theo cái học nghĩa lý của thánh hiền làm tiêu chuẩn, hễ ai tinh thông nghĩa lý thì được trúng cách, tức là thi đậu; nhưng sau rồi mỗi ngày một sai đi, mà cái học khoa cử đi một đường, còn nghĩa lý đi một đường. Khi họ bỏ quên phần nghĩa lý rồi, chỉ chuyên trọng về mặt từ chương. Từ chương tức là làm từ phú văn chương cho hay cho đẹp, lấy đó làm tiêu chuẩn cho sự thi cử. Vì vậy nên nói luôn là từ chương khoa cử".

Cứ đó mà chiếu theo, thì cái học từ chương khoa cử nó bám theo xã hội chúng ta từ bấy tới nay. Cái học này nó cũng không khác gì cái bá y như đã nói ở trên, luôn mang lại những kết quả tức thời cho người thực hành theo nó. Và kết quả là, con người ngày càng xa rời cái gốc rễ của sự học.  

"Người mình coi sự học cũng như cục gạch để gõ cửa, khi cửa mở ra rồi thì cục gạch ném đi. Cái học của ta là để gõ cái cửa giàu sang, khi giàu sang rồi thôi không nói đến học nữa. Mà nói như vậy cũng còn chưa đúng, phải nói rằng ở giữa đám sĩ phu ta chẳng có cái gì là cái học!"



(*): Hồ Quý Ly - Nguyễn Xuân Khánh - NXB Hội Nhà Văn

Chủ Nhật, 7 tháng 10, 2012

Nên xưng Việt Nam là phải

LTS: Vừa rồi có đọc được bài báo của cụ Phan Khôi đăng trên tờ Trung Lập (năm 1931) bàn về tên gọi Việt Nam. Tra trên mạng thấy tài liệu liên quan tới nguồn gốc chưa thực sự tiện cho việc tra cứu, nên đăng lại phần có liên quan. Cũng là để những ai có thêm thông tin đóng góp ý kiến về chuyện sử nước nhà.

NÊN  XƯNG VIỆT NAM LÀ PHẢI

(...)
Ta không nên xưng nước ta là An Nam, là vì cái tên ấy không do ta đặt cho ta, mà do người ngoài đặt cho ta, lại có ý chinh phục ta nữa. Nếu mình dùng hai chữ An Nam mà tự xưng nước mình, ấy là mình cam tâm ở cái địa vị bị chinh phục. Bị chinh phục, là sự cực chẳng đã ; chớ còn an tâm ở cái địa vị bị chinh phục, thế là tự mình làm mất cái bổn tánh tự do độc lập của Trời phú cho đi, không còn xứng đáng là loài người.

Theo lịch sử, hồi nước ta thuộc về nhà Đường bên Tàu, họ đặt một quan nha cai trị xứ ta, kêu bằng “An Nam đô hộ”, quan nha ấy cũng như Đông Pháp toàn quyền phủ bây giờ. Chữ “An Nam” đó nghĩa là làm cho phương Nam an đi. “An Nam đô hộ” nghĩa là: Cái chức quan Đô hộ ấy có cái trách nhiệm phải làm cho phương Nam an đi. Xét sử Tàu hồi bấy giờ, không những đặt An Nam đô hộ mà thôi. Họ đánh yên mấy nước nhỏ ở Tây Vực (gần đỗi Tiểu Á tế á) đặt ra An Tây đô hộ; đánh yên nước Bách Tế và Triều Tiên, đặt ra An Đông đô hộ nữa, cùng đều có ý như “An Nam” vậy.

Mãn thời kỳ đô hộ, nghĩa là đến lúc người mình lấy nước lại mà độc lập rồi, tuy mình xưng tên nước mình là gì trối kệ, nhưng vì mình còn thần phục và triều cống họ, cho nên họ có quyền đặt tên cho nước mình. Bấy giờ dầu bãi đô hộ rồi mà cái tên An Nam họ vẫn giữ, họ lấy mà đặt tên nước mình là An Nam quốc, và phong cho vua mình là An Nam quốc vương. Nước ta mà có cái tên An Nam là từ đó. Và từ đó người Tàu quen kêu người mình là người An Nam.

Người phương Tây giao thông với các nước Á Đông là bắt đầu giao thông với nước Tàu trước. Vì vậy nên người Tây bắt chước người Tàu kêu nước mình là An Nam, mà không kêu theo tên nước mình như chính người mình đã đặt, hoặc Đại Việt, hoặc Đại Nam, hoặc Việt Nam.

Nói riêng về người Pháp thì từ lúc đầu họ kêu cả nước mình là nước An Nam; đến khi chinh phục được, họ chia nước mình ra làm ba, lấy chữ “An Nam” kêu khúc giữa, có ý nói rằng cái nước An Nam thuộc về nhà vua là chỉ còn chút đó.

Tự người Pháp muốn trời muốn đất gì lại không được, song người mình kêu theo như thế là vô lý.

Bởi vậy từ nay ta nên bỏ tiệt hai chữ An Nam đi, đừng dùng mà xưng tên nước ta nữa. Cái khúc giữa của nước ta, ta cũng kêu bằng “Trung kỳ”, dầu trong khi viết bằng Pháp văn cũng cứ xưng như thế.

Còn tại sao mà bảo kêu bằng “Việt Nam”?

Cái tên Việt Nam do vua Gia Long đặt ra sau khi ngài đã nhứt thống toàn quốc từ Nam chí Bắc. Theo sử nói thì ban đầu ngài đặt là "Nam Việt" song vua Tàu sửa lại là "Việt Nam". Từ đấy về sau thì vua Tàu, khi ban chiếu sắc, không kêu nước ta bằng An Nam nữa mà kêu Việt Nam; song dân Tàu nói thường thì vẫn kêu ta là An Nam cho đến bây giờ.

Sau cái tên Việt Nam còn có cái tên Đại Nam, ấy là từ đời vua Minh Mạng. Vua Minh Mạng, sau khi bảo hộ Cao Man rồi, ngài thấy nước ta bản đồ càng rộng ra, ngài bèn đặt là Đại Nam để đối địch với Tàu là Đại Thanh cho oai chơi. Nhưng cái tên Đại Nam đó chỉ xài trong nước mình chớ còn khi dâng biểu qua Tàu thì lại vẫn xưng là Việt Nam quốc như trước.

Hiện ngày nay đây, giấy mực việc quan ở Trung kỳ vẫn xưng là Đại Nam. Vua Bảo Đại đối với nước Pháp vẫn tự xưng là Đại Nam hoàng đế. Vậy thì, theo nhà vua, cái tên Việt Nam hình như đã mất rồi, vì ngày nay không còn triều cống bên Tàu, không có dịp đem ra mà dùng nữa.

Dân ta, người nước ta, cũng nên theo như nhà vua mà kêu là Đại Nam chăng ? Kêu cũng được, nhưng nghe nó ngượng miệng một chút, và cũng hổ ngươi nữa. Không ai nói như vầy mà xuôi tai được : Chúng tôi là dân nước Đại Nam, bị nước Pháp bảo hộ!

Vậy thì ta nên kêu nước ta là Việt Nam, là phải hơn hết.

Tại sao mà phải?

Những cái tên "Nam Việt" hay "Đại Cồ Việt" ngày xưa chưa hề gồm có phía nam Trung kỳ và Nam kỳ, không đại biểu cho toàn quốc ngày nay được. Duy có cái tên "Việt Nam" do vua Gia Long đặt ra, cái tên ấy mới có bao gồm phía nam Trung kỳ và cả Nam kỳ vào, cho nên dùng nó mà chỉ cả nước ta như bản đồ chữ S ngày nay là hiệp lắm.

Tôi lặp lại lần nữa :

Từ rày về sau, chúng ta không nên kêu nước mình bằng An Nam.

Từ rày về sau, chúng ta nên kêu nước mình bằng Việt Nam.

PHAN KHÔI

Trung lập, Sài Gòn, s.6367 (7.2.1931)


Thứ Năm, 4 tháng 10, 2012

Tản mạn chuyện Phân

Câu nói của Mao vốn là kinh điển: "Trí thức chỉ là cục phân". Nhưng hình như, câu nói của ông này đã bị suy diễn và hiểu lầm. Mà dẫu có thế, thì cũng là lẽ thường. Vì người chết rồi, lấy đâu ra ai mà đối chất. Chẳng lẽ, người ta lại đi gọi hồn để xem ý ông là như thế nào.

Ví như, trong truyện "Tại sao con mèo chạy cụp đuôi?" của Azit Nê-xin, ông chẳng đưa ra ví dụ rồi sao:

"....Sau này, khi về thế giới bên kia, thế nào tôi cũng tìm ngay Gớt để hói một câu:
- Người ta kể lại rằng, trước khi giã từ cuộc đời ông có nói: “Kéo rèm ra cho sáng thêm chút nữa!”. Ý nghĩa của những lời vĩ đại này là gì?
Tôi biết chắc rằng Gớt sẽ cười rồi bào:
- Tôi nói: “Cho thêm chút ánh sáng nữa” à? Có gì đâu, lúc ấy tôi thấy mắt tối sầm lại, để nhìn cho rõ mặt những người đang ở bên, tôi liền bảo kéo rèm thêm cho sáng hơn. Thế thôi!..."

Đấy, ví dụ rõ rành rành như là thế đấy. 

Còn trên góc độ cá nhân, tôi nghĩ rằng Mao có ý tốt. Ai cũng biết vai trò của trí thức rất quan trọng, đóng góp rất nhiều cho sự tiến bộ và phát triển của xã hội. Mao vốn chẳng phải trí thức, nên có lẽ ăn nói kém hoa mỹ. Nhưng thực, ở đây, ông ví Trí Thức như Phân, kể ra cũng có ẩn ý riêng, muốn trí thức bón cho mảnh ruộng xã hội thêm tươi tốt. Người sau có thói quen cứ suy diễn linh tinh là thế. Oan cho họ lắm!

Vấn đề còn lại là sản xuất "Phân Trí thức" sao cho tốt mà thôi. Nhưng khổ nỗi, trong cái cơ chế hổng lỗ chỗ, pháp luật lỏng lẻo, thì khó có thể có được nhưng sản phẩm tốt thực sự. Ai chẳng nhanh chân bắt chước, tìm kiếm cơ hội làm giàu thật nhanh. Sản xuất Phân cũng không là ngoại lệ.

Người ta sản xuất Phân Trí thức kém, khiến cho người tiêu dùng và xã hội mất dần sự tin tưởng. Dần mòn không còn ai nhìn nhận đúng vai trò của loại Phân đặc biệt này nữa, nên cuối cùng suy diễn và đổ thừa cho ông Mao.

Thế đấy!